Bản án 72/2019/DS-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 72/2019/DS-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ D xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:53/2019/TLST-DS ngày 18 tháng 02 năm 2019 về việc tranh chấp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2019/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1982 và chị Trần Thị A, sinh năm 1982;

Cùng cư trú tại: Ấp H H, xã T T, huyện Đ D, tỉnh Cà Mau.

Anh C ủy quyền cho chị A (Văn bản ủy quyền ngày 28/01/2019) (có mặt).

- Bị đơn:

1. Anh Lâm Thanh D, sinh năm 1976; cư trú tại: Ấp H H, xã T T, huyện Đ D, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

2. Chị Lê Hồng T, sinh năm 1977; cư trú tại: Ấp H H, xã T T, huyện Đ D, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Trần Thị A là người được anh Nguyễn Văn C ủy quyền trình bày: Anh, chị có tham gia chơi hụi trong dây hụi do anh Lâm Thanh D và chị Lê Hồng T làm chủ đầu thảo, cụ thể:

- Dây hụi 500.000 đồng, mở vào ngày 15/10/2017 âl, 01 tháng khui 01 lần, dây hụi gồm 56 chưng, chị tham gia 02 chưng. Quá trình tham gia hụi đã đóng hụi được 26 lần với số tiền 26.000.000 đồng. Sau đó chị T có trả được 2.000.000 đồng. Tại phiên tòa chị A yêu cầu chị T và anh D trả cho chị số tiền hụi là 25.400.000 đồng, đối trừ số tiền chị T đã trả 2.000.000 đồng. Còn lại là 23.400.000 đồng. Việc chị T làm chủ hụi thì anh D có biết. Do đó chị A yêu cầu anh D cùng có trách nhiệm trả nợ với chị T.

Tại biên bản hòa giải của Tòa án chị T thừa nhận lời trình bày của chị A về thời gian mở hụi, loại hụi, số chưng hụi anh C và chị A tham gia như trên. Việc chị tuyên bố đình hụi là do các hụi viên hốt hụi nhưng không đóng lại hụi nên không có khả năng lấp hụi. Nay chị thống nhất trả cho chị A số tiền hụi vốn là 20.000.000 đồng, đối trừ số tiền chị đã trả 2.000.000 đồng. Còn lại 18.000.000 đồng. Chị T xác định, việc chị làm đầu thảo thì anh D có biết nhưng không tham gia.

Chị T cho rằng giữa chị, chị L và chị A có thỏa thuận gặt nợ với nhau vì chị L thiếu tiền hụi của chị, còn chị thiếu tiền hụi của anh C và chị A. Chị T yêu cầu đối trừ số tiền 2.000.000 đồng chị L đã gửi trả cho chị A.

Tại phiên tòa: Chị A không thừa nhận việc chị T cho rằng giữa chị L, chị A và chị T có thỏa thuận như chị T trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Anh Nguyễn Văn C và chị Trần Thị A khởi kiện yêu cầu anh Lâm Thanh D và chị Lê Hồng T trả tiền hụi là vụ kiện tranh chấp hụi, do đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Anh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không phải vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh D.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của anh C và chị A thấy rằng: Việc giao dịch hụi giữa anh C, chị A và chị Thắm là trên cơ sở tự nguyện của các đương sự.

Xét về khoản tiền phải trả, thấy rằng: Tại phiên tòa chị T yêu cầu được trả tiền vốn hụi, chị xin không trả lãi hụi với số tiền sau khi đối trừ là 18.000.000 đồng, việc này nguyên đơn không đồng ý. Mặt khác, anh C, chị A và chị T không nhớ, không có sổ sách ghi chép số tiền thực tế đã đóng của mỗi kỳ khui hụi và cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện số tiền vốn hụi là bao nhiêu. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận khoản tiền vốn, lãi 25.400.000 đồng theo thỏa thuận của hai bên là có căn cứ. Như vậy số tiền chị T còn nợ là 25.400.000 đồng – 2.000.000 đồng = 23.200.000 đồng.

Việc chị T cho rằng giữa chị, chị L và chị A, anh C có thỏa thuận việc gặt nợ. Lời trình bày của chị T không được chị A thừa nhận, chị T cũng không có gì chứng minh nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Xét trách nhiệm của anh D thấy rằng: Việc chị T làm chủ hụi trong thời gian chị T và anh D còn chung sống với nhau, việc chị T làm chủ hụi để nhận tiền hoa hồng là nhằm mục đích phục vụ cho cuộc sống của gia đình. Do đó, có đủ căn cứ khẳng định số nợ trên phát sinh trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng nên anh D phải có trách nhiệm cùng chị T trả số nợ trên cho anh Cường và chị A

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Chị T và anh D phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Cụ thể: 23.200.000 đồng x 5% = 1.170.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 91; Điều 5; Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 471 của Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn C và Trần Thị A.

1. Buộc chị Lê Hồng T và anh Lâm Thanh D phải có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Văn C và Trần Thị A số tiền hụi 23.400.000 đồng (Hai mươi ba triệu bốn trăm nghìn đồng).

2. Kể từ ngày anh Nguyễn Văn C và Trần Thị A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị Lê Hồng T và anh Lâm Thanh D chậm thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng chị T, anh D còn phải chịu thêm khoản lãi suất chậm thi hành theo mức lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng số tiền và thời gian chậm thi hành.

3. Về án phí dân sự: Chị Lê Hồng T và anh Lâm Thanh D phải chịu 1.170.000 đồng (Một triệu một trăm bảy mươi nghìn đồng).

Anh Nguyễn Văn C và chị Trần Thị A không phải chịu. Ngày 18 tháng 02 năm 2018 anh Nguyễn Văn C và chị Trần Thị A đã dự nộp 630.000 đồng tại biên lai số 0008985 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi được hoàn lại.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2019/DS-ST ngày 28/06/2019 về tranh chấp hụi

Số hiệu:72/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về