Bản án 73/2017/HNGĐ-ST ngày 18/12/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 73/2017/HNGĐ-ST NGÀY 18/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 18 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 214/2017/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2017, về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2017/QĐST-HNGĐ, ngày 08 tháng 12 năm 2017, giữa:

-Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm: 1976.

Hộ khẩu thường trú: Ấp 5, xã H, huyện C, tỉnh Long An.

Tạm trú: ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Ông Phạm Quốc H, sinh năm: 1978. Cư trú tại: Ấp 5, xã H, huyện C, tỉnh Long An.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 8 năm 2017 và trong quá trình xét xử, bà Trần Thị T là nguyên đơn trình bày: Bà và ông Phạm Quốc H được tổ chức lễ cưới vào năm 1995, có đăng ký kết hôn vào ngày 15/4/2005, tại Ủy ban nhân dân thị trấn Tầm Vu, huyện Châu Thành, tỉnh Long An.

Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được trên hai mươi năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông H có chung sống với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên cải vã nhau. Vợ chồng sống chung một nhà nhưng không còn quan tâm với nhau, nên bà đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sống khi nộp đơn xin ly hôn đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông Phạm Quốc H.

Về con chung: Bà và ông H có với nhau một người con chung tên Phạm Thị Anh T, sinh ngày 14/8/2005, hiện nay bà đang trực tiếp nuôi con. Khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục giữ nuôi con chung đến tuổi trưởng thành, bà không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con, được quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ông Phạm Quốc H là bị đơn theo xác nhận của Công an xã H ngày 10/8/2017, ông H hiện đang có mặt tại địa phương, Tòa án nhiều lần tống đạt trực tiếp các thông báo phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho ông Phạm Quốc H nhưng ông H vắng mặt không lý do, do đó cần áp dụng các Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Phạm Quốc H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Trần Thị T xin ly hôn với ông Phạm Quốc H, việc tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý, giải quyết.

[2] Bà Trần Thị T và ông Phạm Quốc H được tổ chức lễ cưới vào năm 1995, có đăng ký kết hôn vào ngày 15/4/2005, tại Ủy ban nhân dân thị trấn Tầm Vu, huyện Châu Thành, tỉnh Long An, nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

[3] Theo bà Trần Thị T sau ngày cưới vợ chồng sống hoà thuận hạnh phúc được trên hai mươi năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông H chung sống với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xuyên cải vã nhau. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà T xin ly hôn với ông H. Đối với ông Phạm Quốc H hiện đang có mặt tại địa phương, Tòa án đã nhiều lần tống đạt trực tiếp cho ông H các thông báo phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông H vẫn vắng mặt không lý do, đã thể hiện ý thức không hợp tác của ông H. Xét thấy giữa hai đương sự đã phát sinh mâu thuẫn, nhưng hai bên không có thiện chí hàn gắn lại, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho bà Trần Thị T được ly hôn với ông Phạm Quốc H, theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Nguyên đơn khai trình hai đương sự có với nhau một người con chung tên Phạm Thị Anh T, sinh ngày 14/8/2005, hiện nay bà T đang trực tiếp nuôi con. Khi ly hôn bà T yêu cầu được tiếp tục giữ nuôi con chung đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy yêu cầu của bà T phù hợp với nguyện vọng của con chung của hai đương sự nên chấp nhận. Bà T không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con nên không đặc ra. Ông Phạm Quốc H được quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bà Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho bà Trần Thị T được ly hôn với ông Phạm Quốc H.

2. Về con chung: Khi ly hôn bà Trần Thị T được tiếp tục giữ nuôi con chung tên Phạm Thị Anh T, sinh ngày 14/8/2005 đến tuổi trưởng thành. Ông Phạm Quốc H không phải cấp dưỡng nuôi con, được quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí bà Trần Thị T đã nộp là 300.000 đồng sang khoản án phí phải thi hành, theo biên lai thu số 0007827 ngày 02 tháng 10 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Toà án tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2017/HNGĐ-ST ngày 18/12/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:73/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về