Bản án 73/2018/HSST ngày 22/11/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 73/2018/HSST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 22 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ an xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Phùng N, sinh ngày 02 tháng 5 năm 1975 tại huyện TC, NA; Nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện TC, tỉnh NA; nghề nghiệp:Lao động tự do; trình độ văn hoá: 4/12;dân tộc:Kinh; giới tính:Nam; tôn giáo: Không;quốc tịch:Việt Nam;con ông Nguyễn Phùng Q, sinh năm: 1948 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm: 1946;Vợ: Lữ Thị T, sinh năm 1980; con có 02 người, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2017; Anh chị, em ruột có 07 người, bị cáo là con thứ 04; tiền án: Không,tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Họ và tên: Phạm Văn H, sinh ngày 01 tháng 5 năm 1992 tại huyện TC, NA; Nơi cư trú: Xóm Y, xã TA, huyện TC, tỉnh NA; nghề nghiệp:Làm ruộng; trình độ văn hoá: 2/12;dân tộc:Kinh; giới tính:Nam; tôn giáo: Không;quốc tịch:Việt Nam;con ông Phạm Văn A, sinh năm: 1966 và bà Trần Thị T, sinh năm: 1961;Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1996; con có 02 người, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; Anh chị, em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ 02; tiền án: Không;

Tiền sự: Tháng 01/2018 bị Công an xã Thanh An, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xử phạt hành chính 1.500.000đồng về hành vi “ Đánh bạc”

Nhân thân: Ngày 13/7/2018 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An khởi tố, điều tra về tội “ Đánh bạc” Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2018 đến nay. Có mặt.

Họ và tên: Nguyễn Văn A, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1984 tại huyện TC, NA;

Nơi cư trú: Thôn H, xã TL, huyện TC, tỉnh NA; nghề nghiệp:Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12;dân tộc:Kinh; giới tính:Nam; tôn giáo: Không;quốc tịch:Việt Nam;con ông Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1957 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1962;Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1988; con có 02 người, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2014; Anh chị, em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ 01; tiền án: Không,tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Họ và tên: Trần Viết M, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1975 tại huyện TC, NA; Nơi cư trú: Xóm Y, xã TM, huyện TC, NA; nghề nghiệp:Lao động tự do; trình độ văn hoá: 4/12;dân tộc:Kinh; giới tính:Nam; tôn giáo: Không;quốc tịch:Việt Nam;con ông Trần Viết H ( đã chết)và bà Võ Thị N, sinh năm: 1951;Vợ: Hồ Thị L, sinh năm 1977; con có 02 người, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2005; Anh chị, em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ 02; tiền án: Không,tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 13/9/2018, Tổ công tác Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang 04 đối tượng gồm: Phạm Văn H, Nguyễn Văn A, Nguyễn Phùng N, Trần Viết M đang đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm ù thắng thua bằng tiền tại nhà bếp của anh Phú Văn T, sinh năm 1971, trú tại: xóm C, xã TĐ, huyện TC, NA. Tang vật thu giữ gồm 12.700.000 đồng tại chiếu bạc, một bộ bài tu lơ khơ 52 quân và 8.000.000 đồng trên người của Phạm Văn H.

Trong quá trình điều tra Phạm Văn H, Nguyễn Phùng N, Nguyễn Văn A, TrầnViết M khai như sau: Vào khoảng 10 giờ, ngày 13/9/2018, Trần Viết M đi từ nhà mình lên xã TĐ, huyện TC để liên hoan nhà mới. Khi đi đến xã TĐ, M vào nhà anh Phú Văn T để chờ mọi người đi mừng nhà mới. Khi vào nhà anh T thì M không thấy anh T vì lúc này anh T đang ngủ trong phòng mà chỉ gặp chị Nguyễn Thị P là vợ anh T. M vào ngồi uống nước tại bàn đặt ngoài sân của gia đình anh T, do trưa phải đón vợ nên M không đi hoàn công nhà mới mà gửi tiền cho chị P mừng giúp. Ngồi chơi một lúc thì M thấy Nguyễn Phùng N, Nguyễn Văn A lần lượt tới nhà anh T và vào bàn uống nước cùng, lúc này chị P đã đi hoàn công nhà mới. Trong lúc ngồi uống nước thì có Phạm Văn H cũng đến ngồi uống nước với N, A và M. Trong lúc đang ngồi uống nước thì N nói với M, H và A là “ta vào giao lưu tý phỏm cho vui” ý nói là rủ đánh bạc ăn tiền thì được cả M, A và H đồng ý. Bốn người đi vào nhà bếp nhà anh T thấy có bộ bài tu lơ khơ nằm ở chiếu trải ở trong nhà bếp thì cả bốn ngồi xuống đánh bạc. Trước khi đánh bạc quy định mỗi người phải để ra 3.000.000 đồng để dùng vào đánh bạc. Hình thức đánh phỏm như sau: Người nào ù là những người còn lại phải trả số tiền 250.000 đồng, người nào cộng điểm nhỏ nhất là người thắng, người nào không có phỏm phải trả cho người nhất số tiền 200.000 đồng, người về cuối là người có số điểm lớn nhất phải trả cho người về nhất số tiền 150.000 đồng, người về ba phải trả cho người về nhất số tiền 100.000 đồng, người về nhì phải trả cho số tiền 50.000 đồng cho người về nhất, người nào ù kép thì những người còn lại phải trả cho người ù số tiền 500.000 đồng. Đánh được một lúc thì N lấy thêm 700.000 đồng tiền bỏ xuống chiếu để đánh bạc. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi cả bốn đang sát phạt nhau thì bị Tổ công tác Công an tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc số tiền 12.700.000 đồng, một bộ bài tu lơ khơ và trong ngườiPhạm Văn H số tiền 8.000.000 đồng.

Quá trình điều tra chứng minh được số tiền đánh bạc như sau: Nguyễn Văn A sử dụng số tiền 3.000.000 đồng để đánh bạc; Trần Viết M sử dụng số tiền 3.000.000 đồng để đánh bạc; Nguyễn Phùng N sử dụng số tiền 3.700.000 đồng để đánh bạc, Phạm Văn H sử dụng số tiền số tiền 3.000.000 đồng để đánh bạc. Tổng số tiền mà bốn đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc là 12.700.000 đồng.

Ngày 16/10/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Chương quyết định trưng cầu giám định số tiền 12.700.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc. Tại bản kết luận giám định số 342/KL-PC09 ngày 23/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Tất cả số tiền 12.700.000 đồng gửi đến giám định đều là tiền thật do Ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành.

Số tiền 8.000.000 đồng thu giữ trong người Phạm Văn H không sử dụng vào mụcđích đánh bạc, nên vào 25 ngày 10 tháng năm 2018, cơ quan CSĐT Công an huyệnThanh Chương đã tiến hành trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Bản cáo trạng số 69/VKS -HS ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Phùng N, Phạm Văn H, Nguyễn Văn A và Trần Viết M về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đại diên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Nguyễn Phùng N, Phạm Văn H, Nguyễn Văn A và Trần Viết M phạm tội “Đánh bạc”

Áp dụng: khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Xử phạt Phạm Văn H 06 đến 09 tháng tù.

Áp dụng: khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Phùng N 07 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách14 đến 20 tháng.

Áp dụng: khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51, Điều Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Xử phạt Nguyễn Văn A 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ.

Áp dụng: khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Xử phạt Trần Viết M từ 20 - 25 triệu đồng. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo Nguyễn Văn A và Phạm Văn H; miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo Nguyễn Văn A.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy bộ bài Tu lơ khơ; tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 12.700.000 đống.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo Nguyễn Phùng N, Phạm Văn H, Nguyễn Văn A và Trần Viết M đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi tố, điều tra, truy tố thì Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có khiếu nại về các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Phùng N, Phạm Văn H, Nguyễn Văn A và Trần Viết M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với nhau; phù hợp với vật chứng thu được; phù hợp với bản kết luận giám định và các chứng cứ tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 13/9/2018, tại nhà bếp của gia đình anh Phú Văn T, sinh năm 1971, thuộc xóm C, xã TĐ, huyện TC, NA, Phạm Văn H, Nguyễn Phùng N, Trần Viết M và Nguyễn Văn A đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh phỏm với tổng số tiền đánh bạc là 12.700.000 (Mười hai triệu, bảy trăm ngàn) đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Phùng N, Nguyễn Văn M,Nguyễn Văn A và Phạm Văn H không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các bị cáo Nguyễn Phùng N, Nguyễn Văn M và Nguyễn Văn A được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; gia đình các bị cáo đều là người có công với nước được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s, i khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; bị cáo Phạm Văn H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bịcáo đều là người có công với nước được tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến.

Xét vai trò của từng bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Phùng N là người khởi xướng nên xử phạt bị cáo hình phạt cao hơn các bị cáo khác, xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ do đó HĐXX áp dụng điều 65 BLHS xem xét cho bị cáo được hưởng án treo. Bị cáo Phạm Văn H giữ vai trò là người thực hành tích cực, H là người đến sau cùng, tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu, đang có tiền sự về tội đánh bạc, trước ngày phạm tội bị cáo đang bị khởi tố về tội “Đánh bạc” trong một vụ án khác do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo. Bị cáo

Trần Viết M có nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ do đó áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo; bị cáo Nguyễn Văn A có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ do đó áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo.

Các bị cáo Nguyễn Phùng N, Phạm Văn H đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập thấp nên miễn hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cho các bị cáo; Bị cáo Nguyễn Văn A có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy bộ bài Tu lơ khơ; tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 12.700.000 đồng là vật chứng của vụ án.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này các bị cáo sử dụng gian nhà bếp của gia đình anh Phú Văn T và chị Nguyễn Thị P, nhưng trước và trong quá trình các bị cáo đánh bạc thì anh T, chị P không biết việc các bị cáo sử dụng nhà của mình để đánh bạc do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Chương không xử lý trách nhiệm hình sự đối với anh T, chị P là đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s, khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm2015 ;Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy banthường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Phạm Văn H;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51, Điều65 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ;Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Nguyễn Phùng N;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ;Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Nguyễn Văn A;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ;Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủyban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Trần Viết M.

1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phùng N, Phạm Văn H, Nguyễn Văn A và Trần Viết Mphạm tội “Đánh bạc”

-Xử phạt: Phạm Văn H 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/9/2018.

-Xử phạt: Nguyễn Phùng N 07 ( Bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (Mười bốn) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Phùng N cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện TC, NA giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

-Xử phạt: Nguyễn Văn A 06 ( Sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo

Nguyễn Văn A cho Uỷ ban nhân dân xã TL, huyện TC, NA giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày người bị kết án được giao cho cơ quan, tổ chức giám sát giáo dục người đó. Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Nguyễn Văn A.

-Xử phạt: Trần Viết M 20.000.000đồng. ( Hai mươi triệu đồng)

2.Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy bộ bài Tu lơ khơ (Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/11/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An)

Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 12.700.000 (Mười hai triệu, bảy trăm ngàn) đồng.(Chi tiết vật chứng theo biên bản niêm phong vật chứng, tài sản ngày 07/11/2018; Biên bản giao nhận tài sản ngày 08/11/2018; Phiếu nhập kho ngày 08/11/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và Kho bạc Nhà nước huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An)

3.Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Phùng N, Trần Viết M, Nguyễn Văn A và Phạm Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000(Hai trăm ngàn)đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2018/HSST ngày 22/11/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:73/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về