Bản án 73/2018/HS-ST ngày 23/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 73/2018/HS-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 75/2018/TLST – HS ngày20 tháng 7 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét  xử số 74/2018/QĐXXST ngày 10 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo :

Nguyễn Văn T, sinh ngày 04 tháng 02 năm 1964

Nơi cư trú: thôn H, xã C, huyện T, tỉnh Thái Bình

Nghề nghiệp: Lao động tự do ; Trình độ văn hóa : 7/10 ; Dân tộc: Kinh

Giới tính: Nam ; Tôn giáo : Không ; Quốc tịch: Việt Nam

Con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1937 con bà Dương Thị S, sinh năm 1940.

Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị B, sinh năm 1964, bị cáo có 03 con lớn sinh năm 1986, con nhỏ sinh năm 1989

Tiền án; Tiền sự : Không

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 7/10. Năm 1982 đi bộ đội bảo vệ lăng Bác Hồ tại Hà Nội, đến năm 1985 về địa phương ở nhà lao động tự do.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/5/2018 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thái Bình. ( Có mặt )

Những người chứng kiến

Ông : Nguyễn Văn K, sinh năm 1959 ( Vắng mặt )

Cư trú tại: thôn H, xã C, huyện T, tỉnh Thái Bình

Ông : Nguyễn Xuân H, sinh năm 1956 ( Vắng mặt )

Cư trú tại: thôn H, xã C, huyện T, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 45 phút ngày 02 tháng 5 năm 2018, tổ công tác Công an huyện Thái Thụy tuần tra tại trục đường 455, thuộc địa phận thôn E, xã C, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình phát hiện Nguyễn Văn T đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn. Công an huyện Thái Thụy yêu cầu T về trụ sở Ủy ban nhân dân xã Thụy Chính làm việc. Tại đây trước sự chúng kiến của chính quyền địa phương và những người chứng kiến khác, Công an huyện Thái Thụy phát hiện trong túi áo ngực bên phải T đang mặc có 02 gói nhỏ được gói bằng giấy kẻ màu xanh, bên trong cả 02 gói đều có chất bột màu trắng dạng cục, T khai đó là ma túy mua về để sử dụng cho bản thân.

Cơ quan công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý và niêm phong vật chứng gửi đi giám định.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 75/CT- VKSTT ngày 19 tháng 7 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự ; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự : Xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung; đề nghị xử lý vật chứng của vụ án và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác vắng mặt được công bố tại phiên tòa .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng : Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã xác định. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3]. Tại bản kết luận giám định số 152/KLGĐ – PC 54 ngày 02/5/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận “Mẫu gửi giám định thu giữ của Nguyễn Văn T là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng là 0,3227 gam

[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Hồi 18 giờ 45 phút, ngày 02 tháng 5 năm 2018, tại địa phận thuộc thôn E, xã C, huyện T, tỉnh Thái Bình, Công an huyện Thái Thụy phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 0,3227 gam, mục đích để sử dụng. Hành vi đó đã phạm vào tội "Tàng trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm

c). Hêrôin, coocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

[5]. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy :

[6]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, làm khánh kiệt về kinh tế, là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn cho xã hội do đó cần phải quyết định một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[7]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự :

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị tình tiết tăng nặng nào

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có thời gian 03 năm tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự . Vì vậy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo phấn đấu trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[8]. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo bản thân là đối tượng nghiện ma túy, lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[9]. Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai thuê xe ôm của một người không biết tên tuổi, địa chỉ chở đi mua ma túy của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, đặc điểm nhận dạng, địa chỉ cụ thể ở khu vực ngã tư V, huyện Q, tỉnh Thái Bình, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[10]. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Số ma túy cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,3227 gam, sau khi lấy mẫu giám định còn lại là 0,2624 gam. Đây là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy

[11]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy "

2.Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02 tháng 5 năm 2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ 0,2624 gam Hêrôin còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T.

(Tất cả vật chứng như trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữ cơ quan công an và Chi cục thi hành án huyện Thái Thụy ngày 20 tháng 7 năm 2018 )

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 về Án phí, Lệ phí Tòa án

Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .

5. Về quyền kháng cáo bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23 tháng 8 năm 2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2018/HS-ST ngày 23/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về