Bản án 73/2019/DS-ST ngày 05/09/2019 về tranh chấp giao dịch hụi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 73/2019/DS-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TRANH CHẤP GIAO DỊCH HỤI

Ngày 05 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 113/2019/TLST-DS ngày 03 tháng 4 năm 2019 về việc tranh chấp giao dịch hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; địa chỉ: Số 439, đường T, Khu phố 7, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Văn Thị Kim C, sinh năm 1992; địa chỉ: Số 32/51, Tổ 51, Khu phố 7, phường A, thành phố M, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày 25/6/2019), có đơn giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Đặng Thị Thu H (tên thường gọi là Ngọc T), sinh năm 1984, địa chỉ: Số 179/55 đường T, Khu phố 4, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại Đơn khởi kiện đề ngày 15/02/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, đại diện nguyên đơn trình bày:

Bà T và bà H có mối quan hệ quen biết nhau. Năm 2017, bà T có tham gia chơi hụi do bà H tổ chức, cụ thể như sau:

*Thứ nhất: Hụi nửa tháng (500.000đ) khui 15/9/2017, góp hụi vào ngày 01 và 15 tây mỗi tháng, kết thúc ngày 01/8/2018. Gồm có 4 dây, mỗi dây 22 phần, bà T tham gia 4 phần. Bà T đã góp được 7 lần, cụ thể:

- 3 lần đầu: 430.000đ x 4phần x 3 lần = 5.160.000đ

- 2 lần kế: 440.000đ x 4phần x 2 lần = 3.520.000đ

- 1 lần kế: 420.000đ x 4phần x 1 lần = 1.680.000đ

- 1 lần kế tiếp: 320.000đ x 4phần x 1lần = 1.280.000đ Tổng số tiền bà T đã góp cho bà H là 11.640.000đ.

Ngày 01/01/2018, bà T được lĩnh 1 phần hụi: chết 7 phần x 500.000đ = 3.500.000đ; sống 14 phần x 320.000đ = 4.480.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ) = 7.780.000đ. Bà T phải góp 3 phần sống còn lại là 320.000đ x 3 = 960.000đ. Tổng số tiền bà T được lĩnh là: 6.820.000đ (1). Bà H hẹn đến ngày 13/01/2018 sẽ giao số tiền trên cho bà T.

*Thứ hai: Hụi tuần thứ 3 (500.000đ/tuần) khui ngày 10/10/2017, ngày kết thúc 30/01/2018. Gồm 6 dây, mỗi dây 17 phần, bà T tham gia 6 dây, mỗi dây 2 phần. Tổng cộng 12 phần. Số tiền bà T đã góp như sau:

- Tuần 1,2,3: giá 80.000đ, góp 420.000đ x 12 phần x 3 tuần = 15.120.000đ

- Tuần 4,5,6: giá 90.000đ, góp 410.000đ x 12 phần x 3 tuần = 14.760.000đ

- Tuần 7,8,9: giá 100.000đ, góp 400.000đ x 12 phần x 3 tuần = 14.400.000đ.

Tổng cộng bà T đã góp 9 tuần: 44.280.000đ.

Tuần 10: Bà T được lĩnh 1 phần: 9 phần chết x 500.000đ = 4.500.000đ; 7 phần sống x 420.000đ = 2.940.000đ. Tổng cộng 7.440.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ) = 7.240.000đ. Bà T phải góp lại 11 phần hụi còn lại là 4.620.000đ (420.000đ x 11 phần) nên chỉ lĩnh được số tiền 2.620.000đ.

Tuần 11: Bà T được lĩnh 1 phần hụi: 10 phần chết x 500.000đ = 5.000.000đ; 6 phần sống x 410.000đ = 2.460.000đ. Tổng cộng 7.460.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ) = 7.260.000đ. Bà T góp lại 1 phần đã lĩnh là 500.000đ + 10 phần sống còn lại là 4.100.000đ = 4.600.000đ nên chỉ lĩnh số tiền 7.260.000đ - 4.600.000đ = 2.660.000đ.

Tuần 12: Bà T được lĩnh 1 phần trị giá 100.000đ: 11 phần chết x 500.000đ = 5.500.000đ; 5 phần sống x 400.000đ = 2.000.000đ. Tổng cộng 7.500.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ), còn lại 7.300.000đ. Bà T phải góp lại 2 phần chết đã lĩnh là 500.000đ x 2 phần = 1.000.000đ + 9 phần sống chưa lĩnh là 9 x 400.000đ = 3.600.000đ. Bà T góp lại cho chủ hụi 4.600.000đ nên chỉ lĩnh 2.700.000đ.

Tuần 13 (ngày 02/1/2018): Bà T được lĩnh 3 phần giá 152.500đ: 4 phần sống x 347.500đ = 1.390.000đ; 12 phần chết x 500.000đ = 6.000.000đ. Tổng cộng 7.390.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ) = 7.190.000đ x 3 phần = 21.570.000đ. Bà T phải góp lại 3 phần chết đã nhận: 500.000đ x 3phần = 1.500.000đ và 6 phần sống chưa nhận là 2.220.000đ. Tổng cộng 3.720.000đ nên chỉ lĩnh 21.570.000đ - 3.720.000đ = 17.850.000đ (2). Số tiền này bà H hẹn ngày 13/01/2018 sẽ giao cho bà T.

Cộng khoản (1) + (2): 6.820.000đ + 17.850.000đ = 24.670.000đ. Bà H viết vào giấy hụi chưa giao bà T số tiền 24.670.000đ, hẹn ngày 13/01/2018 sẽ giao.

*Thứ ba: Hụi ngày (100.000đ/ngày). Khui ngày: 5/12/2017, kết thúc ngày: 04/01/2018. Gồm có 2 dây, mỗi dây 30 người, bà T tham gia 2 dây, mỗi dây 6 phần. Bà T đã góp như sau:

- 20 ngày đầu (05/12 - 24/12): 12 phần x 92.000đ x 20 ngày =22.080.000đ.

- 7 ngày sau (25/12 - 31/12): 12 phần x 94.000đ x 7 ngày = 6.896.000đ.

Tổng cộng bà T đã góp cho bà H: 29.976.000đ.

Ngày 04/01/2018, bà T lĩnh hụi chót: 29 phần chết x 100.000đ = 2.900.000đ (trừ chủ hụi 40.000đ) = 2.860.000đ x 12 phần = 34.320.000đ. Bà T phải góp lại phần hụi 3 ngày 01,02,03/01/2018 chưa đóng là 12 phần x 94.000đ x 3 = 3.384.000đ. Nên tổng số tiền hụi bà T sẽ được nhận là 34.320.000đ - 3.384.000đ = 30.936.000đ. Số tiền này bà H chưa giao cho bà T, hẹn chiều ngày 09/01/2018 sẽ thanh toán cho bà T, bà H viết tay và ký tên xác nhận số tiền trên.

Đối với phần hụi ngày, bà T góp tiền cho bà H, bà H ghi vào cuốn sổ riêng của bà H, không viết giấy hụi như hụi tuần và hụi tháng nhưng có ký nhận xác nhận nợ số tiền trên.

*Thứ tư: Hụi tuần thứ 7 (500.000 đồng/tuần). Khui ngày: 29/7/2017, kết thúc ngày: 07/01/2018. Hụi gồm có 5 dây, bà T tham gia 5 dây, mỗi dây 2 phần. Bà T đã góp như sau:

Tuần 1 - tuần 5 (lời 70.000đ): đã góp 430.000đ x 10 phần x 5 tuần = 21.500.000 đồng.

Tuần 6 - tuần 10 (lời 80.000đ): đã góp 420.000đ x 10 phần x 5 tuần = 21.000.000 đồng.

Tuần 11 - tuần 16 (lời 70.000đ): đã góp 430.000 x 10 phần x 5 tuần = 25.800.000 đồng.

Tổng cộng 16 phần, tương đương số tiền 68.300.000 đồng.

Tuần 17: Bà T lĩnh 1 phần trị giá 100.000 đồng: 16 phần chết x 500.000đ = 8.000.000đ; 7 phần sống x 400.000 đồng = 2.800.000đ. Tổng cộng 10.800.000đ (trừ cho chủ hụi 200.000đ) = 10.600.000đ. Bà T phải góp các phần hụi còn lại là 400.000đ x 9 phần = 3.600.000đ. Tổng cộng bà T lĩnh là 7.000.000đ.

Tuần 18: Bà T lĩnh 1 phần trị giá 100.000đ: 17 phần chết x 500.000đ = 8.500.000đ; 6 phần sống x 400.000 đồng = 2.400.000đ. Tổng cộng 10.900.000đ (trừ cho chủ hụi 200.000đ) = 10.700.000đ. Bà T phải góp cho các phần còn lại là 400.000đ x 8 phần = 3.200.000đ. Tổng cộng bà T lĩnh là 7.500.000đ.

Tuần 19: Còn 8 phần chưa lĩnh và 2 phần đã lĩnh ở tuần 17, 18 nên bà T góp hụi tiếp là 420.000đ x 8 phần + 1.000.000đ = 4.360.000đ.

Tuần 20: Bà T lĩnh tiếp 3 phần trị giá 100.000đ: 19 phần chết x 500.000đ = 9.500.000đ; 4 phần sống x 390.000đ = 1.560.000đ. Tổng cộng 11.060.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ) = 10.860.000đ x 3 phần = 32.580.000đ. Bà T phải góp lại 2 phần đã lĩnh trước 500.000đ x 2 = 1.000.000đ và 5 phần chưa lĩnh 390.000đ x 5 = 1.950.000đ. Tổng cộng bà T lĩnh 29.630.000đ.

Tuần 21: Góp lại 5 phần chết đã lĩnh + 5 phần sống còn lại: 2.500.000đ + 2.050.000đ (lời 90.000đ) = 4.550.000đ.

Tuần 22: Đóng lại 5 phần chết đã lĩnh + 5 phần sống còn lại: 2.500.000đ + 2.150.000đ (lời 70.000đ) = 4.650.000đ.

Tuần 23 bà T lĩnh được 5 phần:

- 1 phần trị giá 130.000đ: 22 phần chết x 500.000đ = 11.000.000đ; 1 phần sống: 370.000đ. Tổng cộng 11.370.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ) = 11.170.000đ.

- 2 phần trị giá 140.000đ: 22 phần chết x 500.000đ = 11.000.000đ; 1 phần sống = 360.000đ. Tổng cộng 11.360.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ) = 11.160.000đ x 2 phần = 22.320.000đ.

- 2 phần trị giá 150.000đ: 22 phần chết x 500.000đ = 11.000.000đ, 1 phần sống = 350.000đ (trừ chủ hụi 200.000đ) = 11.150.000đ x 2 phần = 22.300.000đ.

Tổng số tiền hụi bà T lĩnh là: 11.170.000đ + 22.320.000đ + 22.300.000đ = 55.790.000đ. Bà T góp lại phần hụi đã lĩnh là 500.0000đ x 5 = 2.500.000đ. Vì vậy, số tiền còn lại bà T được lĩnh là: 53.290.000đ. Tất cả 5 phần hụi này bà H chưa giao tiền cho bà T, hẹn đến ngày 11/01/2018 sẽ giao cho bà T.

Tuần 24 (tuần cuối 07/01/2018): bà T phải góp lại 10 phần hụi đã lĩnh là 500.000đ x 10 phần = 5.000.000đ. Vì vậy, tổng số tiền hụi tuần thứ 7 bà H phải giao cho bà T là 53.290.000đ - 5.000.000đ = 48.290.000đ. Số tiền này bà H có ghi xác nhận và ký tên hẹn ngày 11/01/2018 sẽ giao đủ cho bà T.

Tuy nhiên, ngày 08/01/2018, bà H đã bỏ trốn khỏi địa phương. Bà T đến nhà tìm nhiều lần nhưng không thấy bà H.

Vì vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Toà án buộc bà H trả lại số tiền hụi theo các giấy hụi có ký nhận của bà H là: 48.290.000đ + 30.936.000đ + 24.670.000đ = 103.896.000 đồng.

Đối với số tiền 6.400.000 đồng do không có chứng cứ chứng minh nên bà T không yêu cầu bà H trả.

- Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Đặng Thị Thu H không đến Tòa án làm việc, hòa giải; không nộp văn bản nêu ý kiến và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Tại phiên tòa, - Đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng không tham gia phiên tòa. Do đó, căn cứ các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa xét xử vắng mặt bị đơn.

- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi xét xử, Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết đã thực hiện đúng quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự; tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án thực hiện đúng quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm; nguyên đơn, đại diện nguyên đơn đã chấp hành đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật;

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Xét về nội dung các giấy biên nhận do bà T cung cấp không thể hiện rõ ràng số tiền bà T được hốt bao nhiêu, ngày giờ hốt. Mặc dù, có chữ viết tên Đặng Thị Thu H nhưng không rõ năm sinh, địa chỉ của bà H. Hơn nữa, tại bút lục số 03 thể hiện chủ hụi là “Ngọc T” không phải bà H như bà T trình bày, các chữ viết này chưa rõ ai là người viết ra, đây chỉ là lời trình bày một phía từ bà T. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.

Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở ý kiến trình bày của nguyên đơn, đại diện nguyên đơn và ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (quy định tại khoản 3, Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự). Do bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nên thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một (quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự). Về thời hiện khởi kiện, do bị đơn không có yêu cầu áp dụng quy định thời hiệu khởi kiện nên tranh chấp này Tòa xác định không áp dụng thời hiệu khởi kiện (quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự).

[2] Xét việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của đại diện nguyên đơn không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu của nguyên đơn, phù hợp Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Tòa chấp nhận.

[3] Quá trình giải giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng bà H không đến tham gia phiên họp. Sau khi mở phiên họp, Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp cho bà H biết để thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình nhưng bà H không có ý kiến phản bác lời trình bày và các giấy tờ, tài liệu do bà T giao nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, căn cứ khoản 1, 5 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa xác định tất cả các giấy tờ, tài liệu và lời trình bày của bà T được xem chứng cứ của vụ án. Đối với giấy hụi khui ngày 10/10/2017 (bút lục 01), mặc dù ghi chủ hụi là Ngọc T nhưng trên giấy hụi có đóng dòng chữ Đặng Thị Thu H, bà T trình bày bà H có tên thường gọi Ngọc T, bà H không phản bác ý kiến này nên thuộc trường hợp không cần phải chứng minh quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng:

Thời điểm bà T, bà H xác lập và thực hiện giao dịch hụi trước ngày Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ có hiệu lực nên Tòa áp dụng Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ để giải quyết.

Theo quy định tại Điều 7 Nghị định 144 thì giao dịch hụi các bên có thể thỏa thuận bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Giao dịch hụi giữa bà T và bà H được xác lập vừa bằng lời nói, vừa bằng văn bản nên phù hợp pháp luật. Căn cứ các chứng cứ do bà T giao nộp, như: Giấy hụi ngày 10/10/2017, các giấy nợ hụi (bút lục 02, 03) và các Thông báo thụ lý vụ án: Số 81/TB-TLVA ngày 20/3/2019, số 148/TB-TLVA ngày 24/4/2019, số 153/TB-TLVA ngày 24/4/2019, Số 154/TB-TLVA ngày 24/4/2019, Số 155/TB-TLVA ngày 24/4/2019, Số 156/TB-TLVA ngày 24/4/2019, Số 157/TB-TLVA ngày 24/4/2019, Số 165/TB-TLVA ngày 24/4/2019, Số 166/TB-TLVA ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Tòa có cơ sở xác định: Bà H có tổ chức chơi hụi, bà T tham gia chơi hụi với bà H là có thật. Giao dịch hụi giữa bà T, bà H là hụi có lãi quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 17 Nghị định 144.

Xét các giấy nợ hụi (bút lục 02, 03), thấy rằng: Số tiền hụi 24.670.000 đồng, 30.936.000 đồng và 48.290.000 đồng được bà H, bà T xác lập thông qua việc đối chiếu các phần hụi sống, hụi chết của bà T và tiền hoa hồng cho chủ hụi; đồng thời trong 02 giấy nợ hụi có chữ viết, chữ ký của bà H, ghi rõ nội dung chủ hụi Đặng Thị Thu H chưa giao tiền hụi cho bà T. Tất cả các giấy nợ hụi trên, Tòa án đã mở phiên họp công khai chứng cứ, bà H không có ý kiến phản bác. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 15, Điều 22 Nghị định 144, Tòa chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, buộc bà H trả số tiền hụi trên cho bà T.

Đối với lãi do chậm trả nợ hụi, do bà T không yêu cầu nên Tòa không xem xét, giải quyết.

Từ những nhận định trên, xét thấy ý kiến phát biểu về việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên không có căn cứ nên Tòa không chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của bà T được Tòa chấp nhận nên bà H phải chịu án phí theo quy định Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các điều 92, 95, 147, 227, 228, 244, 266, 271, 273, 278, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T đối với bị đơn bà Đặng Thị Thu H về việc tranh chấp giao dịch về hụi. Xử:

- Buộc bà H trả cho bà T số tiền hụi 103.896.000đ (một trăm lẻ ba triệu tám trăm chín mươi sáu ngàn đồng) theo 02 giấy nợ hụi ký hiệu bút lục 02, 03 trong hồ sơ vụ án.

- Tiền lãi do chậm trả nợ hụi: Bà T không yêu cầu nên Tòa không xem xét, giải quyết.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bà H nộp số tiền 5.195.000đ (năm triệu, một trăm chín mươi lăm ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

Trả lại bà T số tiền 2.757.000 (hai triệu bảy trăm năm mươi bảy ngàn đồng) đã nộp tạm ứng trước đây theo Biên lai thu số AA/2016/0033713 ngày 29/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một.

3. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án. Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

383
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/DS-ST ngày 05/09/2019 về tranh chấp giao dịch hụi

Số hiệu:73/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về