Bản án 74/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V H, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 77/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 8 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Khà Văn T, sinh năm 1969, tại Hoà Bình.

Nơi cư trú: Xóm N Ph, xã N Ph, huyện M Ch, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Khà Văn Ổ và bà Hà Thị D (Đều đã chết); bị cáo có vợ là Hà Thị H (Đang chấp hành án) và 02 con; con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 2004 Tiền án: Ngày 14/6/2012 bị Tòa án nhân dân huyện M Ch xử phạt 60 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/02/2016. Nộp tiền án phí hình sự xong ngày 18/6/2012. Chưa nộp tiền phạt còn lại là 6.800.000đ.

Tiền sự: Ngày 29/3/2010 UBND huyện M Ch áp dụng biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng. Trung tâm giáo dục – Lao động tỉnh Hòa Bình quyết định hoãn điều trị cai nghiện kể từ ngày 10/3/2010 đến 17/8/2010. Hết thời hạn hoãn, Khà Văn T không đi chấp hành.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2019 cho đến nay. Có mặt.

2. Ngần Thị L. Sinh năm 1975, tại Hòa Bình.

Nơi cư trú: Xóm N, xã X Kh, huyện M Ch, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngần Văn T và bà Đinh Thị L (Đã chết); bị cáo có chồng là Hà Văn Th và 03 con; con lớn nhất sinh năm 1998 con nhỏ nhất sinh năm 2010.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 29/3/2013 bị Tòa án nhân dân huyện M Ch xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/01/2016. Nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm xong ngày 10/5/2013.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2019 cho đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Sồng A N; Địa chỉ: Bản C Ch, xã L L, huyện VH, tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ 50 phút, ngày 19/5/2019, tại bản C Ch, xã L L, huyện VH, tỉnh Sơn La. Tổ công tác công an huyện VH và Công an xã L L kiểm tra xe máy BKS 28E1-161.06 do Khà Văn T điều khiển chở Ngần Thị L. Phát hiện T đang cầm trong lòng bàn tay trái 01 gói nilon mầu đen, bên trong đựng 01 gói nilon mầu trắng chứa chất bột mầu trắng và 01 gói nilon mầu đen bên trong đựng 16 viên nén mầu hồng, bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY. Khà Văn T và Ngần Thị L khai nhận: đó là là Heroine và Hồng phiến. Do đều nghiện ma túy và quen biết nhau, khoảng 07 giờ 00, ngày 19/5/2019 L điều khiển xe máy BKS 28E1-161.06 đến nhà T chơi. Đến 16h00, T rủ L cùng đi lên xã H K, huyện M Ch tìm mua ma túy về sử dụng. L đồng ý và đưa xe cho T chở mình. Cả hai cùng nhau đến nhà một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, không nhớ địa chỉ ở Xóm H K, xã H K, huyện M Ch, tỉnh Hòa Bình. T vào hỏi mua ma túy được 01 gói Heroine và 18 viên Hồng Phiến với giá 1.100.000 đồng. T và L lấy 02 viên Hồng Phiến và một ít Heroine ra sử dụng đem về cùng nhau sử dụng. Sử dụng ma túy xong, T gói ma túy lại, cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe chở L về nhà. Trên đường về đến bản C Ch, xã L L, huyện VH, gặp tổ công tác Công an huyện VH đang làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện bắt giữ.

Căn cứ vào hành vi của Khà Văn T và Ngần Thị L, Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, tạm giữ của L 01 chiếc xe máy BKS 28E1-161.06, 01 đăng ký xe mô tô mang tên Bùi Văn M và dẫn giải T, L về Cơ quan điều tra để xử lý.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an huyện VH tiến hành cân tịnh số chất bột màu trắng, viên nén màu hồng thu giữ của Khà Văn T và Ngần Thị L, xác định được chất bột mầu trắng có khối lượng 0,59 gam, trích 0,09 gam làm mẫu gửi giám định, ký kiệu TL.16 viên nén màu hồng có khối lượng 1,63 gam, trích 0,51 gam làm mẫu gửi giám định, ký kiệu TL2 .

Kết luận giám định số 923/KLMT ngày 21/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận "Mẫu gửi giám định ký hiệu TL là ma túy; Loại Heroine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu TL2 là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,51 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 1,63 gam, Loại Methamphetamine và 0,59gam, loại Heroine”

Cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 09/8/2019 của VKSND huyện VH, truy tố Khà Văn T và Ngần Thị L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, kiểm sát viên đề nghị HĐXX xem xét: Tuyên bố Khà Văn T và Ngần Thị L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

* Áp dụng điểm i khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 17, 58 Bộ luật hình sự:

+ Xử phạt: Khà Văn T từ 36 đến 42 tháng tù.

+ Xử phạt: Ngần Thị L từ 30 đến 36 tháng tù.

+ Không phạt bổ sung đối với các bị cáo; áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 1,12 gam Methamphetamine; 0,50 gam Heroine và vỏ gói niêm phong ban đầu, 02 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Khà Văn T và Ngần Thị L.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe máy Honda Wave màu xanh đen bạc, mang BKS:28E1-161.06, số máy JA 39E0897106, số khung 3913KY041094, đã qua sử dụng và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 010106 mang tên Bùi Văn M.

+ Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do nghiện ma túy, Khà Văn T đã rủ Ngần Thị L đến xã H K, huyện M Ch, tỉnh Hòa Bình để mua và tàng trữ 0,59 gam Heroine và 1,63gam Methamphetamine với giá 1.100.000 đồng để sử dụng, trên đường về đến địa phận bản C Ch, xã L L, huyện VH thì bị phát hiện, hiện bắt giữ. Hành vi của các bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm i khoản 1 điều 249 BLHS.

Các bị cáo tàng trữ 02 loại ma túy, căn cứ Điều 4 Chương 2 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của chính phủ về việc tính tổng khối lượng ma túy tại một số điều của BLHS 2015, thì tổng khối lượng ma túy các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là (1,63 gam Methaphetamine + 0,59 gam Heroine) = 2,22 gam, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2] Tính chất hành vi của các bị cáo: Các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý. Khà Văn T rủ rê, điều khiển và chở Ngần Thị L đi mua ma túy và là người trực tiếp bỏ tiền của mình ra để giao dịch, mua bán ma túy. Các bị cáo là đồng phạm, nhưng T có vai trò cao hơn, đã từng bị đưa đi cai nghiện bắt buộc, lại phạm tội trong khi chưa được xóa án tích, là tái phạm. Ngần Thị L đã từng bị xử phạt tù về tội phạm ma túy, cũng có vai trò quan trọng trong vụ án. Các bị cáo đều có trình độ nhận thức nhất định. HĐXX xét thấy, việc khởi tố, truy tố của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát được thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng, có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và những lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa. Cần xử phạt tù T xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo. Nên đều được xem xét cho hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS.

[4]Về phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo nghiện ma tuý, không có thu nhập riêng, không có khả năng thi hành, nên không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,50 gam Heroine; 1,12 gam Methamphetamie và vỏ gói niêm phong ban đầu, 02 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Khà Văn T và Ngần Thị L là những vật bị cấm lưu hành hoặc không có giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy.

Chiếc xe máy Honda Wave màu xanh đen bạc, mang BKS:28E1-161.06, số máy JA 39E0897106, số khung 3913KY041094, đã qua sử dụng và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 010106 mang tên Bùi Văn M. Qua xác minh thuộc quyền sở hữu của Ngần Thị L. Bị cáo Ngần Thị L đã cùng Khà Văn T dùng xe máy vào việc phạm tội. Do vậy cần tuyên tịch thu sung Ngân sách nhà nước.

[6]Về nguồn gốc chất ma túy: Người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho các bị cáo, các bị cáo không biết tên, địa chỉ. Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 điều 249, điều 17, 58, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự:

1. Tuyên bố các bị cáo Khà Văn T và Ngần Thị L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm i khoản 1 điều 249, điều 17, 58, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Khà Văn T 36 (Ba sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tình từ ngày 19/5/2019.

- Áp dụng điểm i khoản 1 điều 249, điều 17, 58, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Ngần Thị L 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tình từ ngày 19/5/2019.

Không áp dụng phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng các điểm c khoản 1, khoản 2 điều 47 BLHS, điểm a,c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,50 gam Heroine; 1,12 gam Methamphetamie và vỏ gói niêm phong ban đầu, 02 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Khà Văn T và Ngần Thị L.

+ Tịch thu sung Ngân sách nhà nước Chiếc xe máy Honda Wave màu xanh đen bạc, mang BKS:28E1-161.06, số máy JA 39E0897106, số khung 3913KY041094, đã qua sử dụng và 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 010106 mang tên Bùi Văn M.

Theo biên bản giao vật chứng số: 95/BBVC ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VH.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, các bị cáo, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về