Bản án 74/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18/9/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 69/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/QĐXXST-HS ngày 04/9/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên Nguyễn Văn L, sinh năm 1991; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi ở và ĐKNKTT: Thôn 4 V, xã T, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông Nguyễn Văn T và bà Màn Thị P; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Không; Có 01 tiền sự + Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 06/QĐ-XPHC ngày 05/5/2019, Nguyễn Văn L bị Công an xã T, huyện N, tỉnh Ninh Bình xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Nguyễn Văn L chưa chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giam kể từ ngày 11/6/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Anh Đinh Văn H, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Ninh Mạnh H 1, sinh năm 1983.

- Chị Phạm Thị H, sinh năm 1986.

Cùng địa chỉ: Thôn 3, xã L, huyện N, tỉnh Ninh Bình. (Anh H 1, chị H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 00 giờ ngày 21/5/2019, Nguyễn Văn L đang ở nhà tại thôn 4 V, xã T, huyện N, tỉnh Ninh Bình thì có anh B ở huyện T, tỉnh Hòa Bình là người cùng làm thuê với L vào năm 2008 ở Hòa Bình đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream đến nhà Nguyễn Văn L yêu cầu trả nợ số tiền 900.000 đồng mà trước đó L đã vay của anh B. Lúc này do không có tiền trả nên Nguyễn Văn L đã mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream của anh B để đi vay tiền, còn anh B ở nhà L nằm ngủ. Khi Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô đi trên đường Quốc lộ 12B thuộc địa phận thôn T, xã V, huyện N thì L quan sát thấy có 01 chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu THACO Biển kiểm soát 35C-090.01 của anh Đinh Văn H sinh năm 1987 ở thôn T, xã V, huyện N đang đỗ tại bãi đất trống bên cạnh đường không có người trông coi. Nguyễn Văn L đã nảy sinh ý định trộm cắp bình ắc quy gắn trên xe ô tô của anh H nên điều khiển xe mô tô đi về nhà lấy 01 chiếc mỏ lết rồi quay lại. Đến khoảng 01 giờ sáng cùng ngày, Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream quay lại vị trí chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu THACO Biển kiểm soát 35C-090.01 của anh H đang đỗ ở bãi đất trống thuộc địa phận thôn T, xã V, huyện N. L sử dụng chiếc mỏ lết vặn 04 chiếc ốc nối 02 đầu cực âm và cực dương của 02 bình ắc quy nhãn hiệu Pinaco dongnai N100 gắn trên xe ô tô rồi tháo 02 bình ắc quy ra khỏi xe ô tô. Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô chở 02 bình ắc quy vừa trộm cắp được của anh H đến cửa hàng thu mua phế liệu của chị Phạm Thị H sinh năm 1986 ở thôn 3, xã L, huyện N bán cho chị H 02 bình ắc quy nhãn hiệu Pinaco dongnai N100 với giá 900.000 đồng rồi Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream về nhà trả xe cho anh B và lấy 900.000 đồng trả nợ cho anh B. Sau đó anh B điều khiển xe mô tô đi về (BL 85-100).

Ti Bản kết luận định giá tài sản số 24 ngày 03/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N kết luận: “Tổng giá trị 02 bình ắc quy nhãn hiệu Pinaco dongnai N100 được đưa ra định giá là 3.547.000 đồng”. (BL 53-54).

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn L đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên; Kiểm sát viên, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Ti bản cáo trạng số 67/CT-VKSNQ-HS ngày 16/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn L đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 11/6/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn L do bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng.

* Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện giữa người bị hại là anh Đinh Văn H, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị H không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết về trách nhiệm dân sự vì tài sản bị cáo trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; chị H không buộc bị cáo trả lại số tiền 900.000đồng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Li nói sau cùng của bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố cụ thể như sau: Do cần tiền để trả nợ nên sau khi quan sát thấy chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu THACO Biển kiểm soát 35C-090.01 của anh H đang đỗ ở bãi đất trống thuộc địa phận thôn T, xã V, huyện Nho Quan không có người trông coi nên khoảng 01 giờ ngày 21/5/2019 bị cáo sử dụng chiếc mỏ lết rồi tháo 02 bình ắc quy ra khỏi xe ô tô sau đó mang đến cửa hàng thu mua phế liệu của chị Phạm Thị H sinh năm 1986 ở thôn 3, xã L, huyện N bán với giá 900.000 đồng.

Li khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản lấy lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản thu giữ vật chứng; bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 24 ngày 03/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định bị cáo lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản nên lén lút, bí mật chiếm đoạt của anh Đinh Văn H ở thôn T, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình 02 bình ắc quy nhãn hiệu Pinaco dongnai N100 gắn trên chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu THACO Biển kiểm soát 35C-090.01 có giá trị là 3.547.000 đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 thì: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét thấy:

Hành vi trộm cắp nhằm chiếm đoạt tài sản của bị cáo là cố ý, gây nguy hiểm cho xã hội. Đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi này đã gây nên sự bất an cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Xét thấy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm mặt khác bị cáo là người đang có một tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà vẫn cố ý thực hiện. Điều đó chứng tỏ bị cáo có ý thức coi thường pháp luật. Do vậy, cần áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản bị cáo đã chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu. Đây là những tình tiết được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đi với chị Phạm Thị H và anh Ninh Mạnh H 1 quá trình điều tra đã chứng minh chị H, anh H 1 không biết 02 chiếc bình ắc quy nhãn hiệu Pinaco dongnai N100 là tài sản do Nguyễn Văn L chiếm đoạt của anh Đinh Văn H. Vì vậy chị H và anh H 1 không phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ án này.

Đi với người đàn ông có tên là B ở huyện T, tỉnh Hòa Bình (theo lời khai của Nguyễn Văn L), quá trình điều tra không xác minh được tên tuổi, địa chỉ của người này nên không có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Văn L do bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 bình ắc quy nhãn hiệu Pinaco dongnai N100 là tài sản hợp pháp của anh Đinh Văn H. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho anh Đinh Văn H là phù hợp.

- Đối với số tiền 900.000 đồng mà Nguyễn Văn L bán 02 chiếc bình ắc quy trộm cắp của anh H cho chị H, Nguyễn Văn L khai nhận đã trả cho anh B ở huyện T, tỉnh Hòa Bình. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ của anh B nên không thu hồi được.

- Đối với chiếc mỏ lết Nguyễn Văn L sử dụng để tháo 02 chiếc bình ắc quy, L đã đánh rơi trên đường về nhà không xác định được địa điểm bị rơi nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

[5]. Về trách nhiệm dân sự:

- Ghi nhận sự tự nguyện của người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất kỳ khoản tiền nào vì đã nhận lại được tài sản bị cáo đã chiếm đoạt.

- Ghi nhận sự tự nguyện của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị H không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 900.000 đồng.

- Đối với số tiền 650.000 đồng anh Ninh Mạnh H 1 mua 01 chiếc bình ắc quy nhãn hiệu Pinaco dongnai N100 của chị H, anh H 1 chưa thanh toán cho chị H. Do anh H 1 đã giao nộp chiếc bình ắc quy cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N nên chị H không yêu cầu anh H 1 phải thanh toán cho chị H số tiền 650.000 đồng.

[6]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/6/2019.

2.Về trách nhiệm dân sự:

- Ghi nhận sự tự nguyện của người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất kỳ khoản tiền nào vì đã nhận lại được tài sản.

- Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị H không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 900.000đồng.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 18/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về