Bản án 75/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 75/2017/HS-ST NGÀY 15/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2017 tại khu vực lễ hội huyện B thuộc Khu phố E, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2017/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo: 

Lê Văn A, sinh ngày 10/3/1992 tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Khu phố B,thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa:10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hữu S và bà Phạm Thị N; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 29/6/2017, đến ngày 03/7/2017 chuyển sang tạm giam cho đến nay “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Văn A là người nghiện ma túy. Từ tháng 4/2017, bị cáo A đã nhiều lần mua ma túy từ một người đàn ông chưa rõ họ tên, địa chỉ tại Phường A, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh và mua của Nguyễn Văn Q ngụ tại Khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Sau đó bị cáo A chia số ma túy mua được thành nhiều bịch nhỏ, bán lại cho các đối tượng nghiện trên địa bàn huyện Tân Biên để kiếm lời, lấy tiền mua ma túy sử dụng, cụ thể như sau:

- Bị cáo A bán ma túy cho Trần Thái C, sinh năm 1993, ngụ tại ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh 05 lần vào thời gian cuối tháng 5/2017, đầu tháng 6/2017 và ngày 18/6/2017, mỗi lần 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng, bán tại nhà của bị cáo A thuộc Khu phố B, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh.

- Bán ma túy cho Võ Văn D, sinh năm 1989, ngụ ấp S, xã T, huyện B, tỉnhTây Ninh 02 lần, vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 25/6/2017 và 21 giờ ngày 25/6/2017, mỗi lần 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng, bán tại nhà của bị cáo A thuộc Khu phố B, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh.

- Bán ma túy cho Kha Thị M, sinh năm 1995 ngụ Khu phố D, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh 01 bịch ma túy với giá 500.000 đồng vào ngày 19/6/2017, tại quán nhậu “M” thuộc khu phố C, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh.

- Bán ma túy cho Nguyễn Thị G, sinh năm 1990 ngụ ấp H, xã L, huyện B,tỉnh Tây Ninh 02 lần: Lần thứ nhất, ngày 24/6/2017, bán 01 bịch ma túy giá500.000 đồng tại nhà nghỉ “H” thuộc khu phố C, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; lần thứ hai, vào ngày 28/6/2017, bán 01 bịch giá 800.000 đồng cũng tại nhà nghỉ “H”.

- Ngày 29/6/2017, Nguyễn Thị G và Kha Thị M hùn tiền mỗi người 300.000 đồng, mua của bị cáo A 01 bịch ma túy giá 600.000 đồng. Khi bị cáo A vừa giao ma túy và nhận tiền của G, M tại nhà của bị cáo A thì bị lực lượng Công an bắt quả tang cùng tang vật. Khám xét nơi ở của bị cáo A thu giữ 03 bịch ma túy và một số tài sản, đồ vật có liên quan.

Ngoài ra, bị cáo Lê Văn A còn khai nhận đã bán ma túy cho người tên L nhà ở ấp A, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh 02 lần vào tháng 6/2017 nhưng ngoài lời khai của bị cáo A thì không có chứng cứ nào khác chứng minh.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo Lê Văn A đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình.

* Kết quả trưng cầu giám định:

Tại kết luận số 133/MT-2017 ngày 01/7/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:

- Tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch ny lon được hàn kín (ký hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy, tên gọi Methamphetamine; trọng lượng mẫu 0,1369 gam.

- Tinh thể rắn màu trắng bên trong 02 bịch ny lon được hàn kín (ký hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy, tên gọi Methamphetamine; trọng lượng mẫu 0,17498 gam.

- Tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch ny lon được hàn kín (ký hiệu M3) gửi đến giám định là chất ma túy, tên gọi Methamphetamine; trọng lượng mẫu 0,2896 gam. Sau khi giám định đối tượng M1 còn lại 0,0740 gam, M2 còn lại 1,5837 gam, M3 còn lại 0,2263 gam được niêm phong có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn Nguyện.

* Vật chứng vụ án thu giữ của bị cáo Lê Văn A gồm:

- Một bìa thư niêm phong ký hiệu M1 chứa 0,0740 gam (không phẩy không bảy bốn không gam) ma túy có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N;

- Một bìa thư niêm phong ký hiệu M2 chứa 1,5837 gam (một phẩy năm tám ba bảy gam) ma túy có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N;

- Một bìa thư niêm phong, ký hiệu M3 chứa 0,2263 gam (không phẩy hai hai sáu ba) ma túy có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N;

- Một (01) điện thoại di động màu trắng đen, hiệu Nokia số Imel: 358976/01/803052/7, không kiểm tra tính năng;

- 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 02 bình ga mini; 01 cái kéo nhỏ bằng kim loại; 02 hột quẹt; 01 khẩu trang màu xám.

- Tiền Việt Nam 600.000 đồng;

- Một tủ nhựa mini.

* Kết quả kê biên tài sản: Bị cáo Lê Văn A không có tài sản riêng nên không tiến hành kê biên.

* Đối với Kha Thị M, Nguyễn Thị G, Trần Thái C, Võ Văn D có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện Tân Biên đã xử phạt hành chính là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

* Đối với người đàn ông ở thành phố Hồ Chí Minh bán ma túy cho Lê Văn A và người tên L mua ma túy của Lê Văn A nhưng hiện chưa xác định được họ tên, địa chỉ của những người này nên chưa có cơ sở xử lý. Khi nào xác định được sẽ xem xét, xử lý sau.

* Đối với Nguyễn Văn Q theo lời khai của Lê Văn A là người bán ma túy cho Lê Văn A nhưng hiện tại Q không có mặt tại địa phương, không rõ đi đâu, chưa làm việc được nên chưa có cơ sở xử lý, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

Bản cáo trạng số 75/QĐ/KSĐT, ngày 13 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Lê Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát huyện Tân Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo Lê Văn A mức án từ 07 năm đến 08 năm tù.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng vụ án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lê Văn A thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố, không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện:

 [2] Khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 29/6/2017, tại Khu phố B, thị trấn T, huyện B, tỉnh Tây Ninh, Bị cáo Lê Văn A bị bắt quả tang đang bán ma túy cho Kha Thị M và Nguyễn Thị G 01 bịch ma túy, tên gọi Methamphetamine, trọng lượng mẫu 0,1369 gam với giá 600.000 đồng. Qua khám xét nơi ở của bị cáo còn phát hiện và thu giữ 03 bịch ma túy, tên gọi Methamphetamine, có tổng trọng lượng mẫu 2,0394 gam. Hành vi của bị cáo Lê Văn A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự.

 [3] Ngoài ra, từ cuối tháng 5/2017 đến ngày 28/6/2017, bị cáo Lê Văn A đã 05 lần bán ma túy cho Trần Thái C; 04 lần bán ma túy cho Kha Thị M và Nguyễn Thị G; 02 lần bán ma túy cho Võ Văn D với tổng số tiền là 3.200.000 đồng. Hành vi của bị cáo Lê Văn A bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội nhiều lần”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 75/QĐ/KSĐT ngày 13 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Lê Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

 [4] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, ma túy là loại chất độc dược gây nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý. Nghiêm cấm việc trồng, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Đồng thời, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển con người, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó, cần xử bị cáo mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe và phòng ngừa các tội phạm về ma túy và để có điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phục vụ cho công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

 [5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự thú ra những lần phạm tội trước đó. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

 [6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự quy định “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Biện pháp tư pháp:

 [7] Xử lý vật chứng:

- Một bìa thư niêm phong ký hiệu M1 chứa 0,0740 gam (không phẩy không bảy bốn không gam) ma túy, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N; một bìa thư niêm phong ký hiệu M2 chứa 1,5837 gam (một phẩy năm tám ba bảy gam) ma túy có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N; một bìa thư niêm phong, ký hiệu M3 chứa 0,2263 gam (không phẩy hai hai sáu ba) ma túy có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N. Đây là chất ma túy, vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Hai bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 02 bình ga mini; 01 cái kéo nhỏ bằng kim loại; 02 hột quẹt, 01 tủ nhựa mini, 01 khẩu trang màu xám đây là dụng cụ dùng vào việc sử dụng ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy;

- Tiền Việt Nam 600.000 đồng là tiền bị cáo Lê Văn A bán ma túy mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước;

- Số tiền bị cáo Lê Văn A bán ma túy tổng cộng 3.200.000 đồng là tiền thu lợi bất chính nên cần truy tịch thu sung quỹ Nhà nước;

-Một (01) điện thoại di động màu trắng đen, hiệu Nokia số Imel: 358976/01/803052/7, không kiểm tra tính năng là phương tiện bị cáo Lê Văn A dùng để liên lạc trong việc mua bán ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước;

 [8] Về án phí:

Bị cáo Lê Văn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tuyên bố bị cáo Lê Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn A 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 29/6/2017.

2. Biện pháp tư pháp:

* Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tuyên bố tịch thu tiêu hủy: Một bìa thư niêm phong ký hiệu M1 chứa 0,0740 gam (không phẩy không bảy bốn không gam) ma túy có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N; một bìa thư niêm phong ký hiệu M2 chứa 1,5837 gam (một phẩy năm tám ba bảy gam) ma túy có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N; một bìa thư niêm phong, ký hiệu M3 chứa 0,2263 gam (không phẩy hai hai sáu ba) ma túy có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N; 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 02 bình gas mini; 01 cái kéo nhỏ bằng kim loại; 02 hột quẹt, 01 tủ nhựa mini, 01 khẩu trang màu xám.

- Tuyên bố tịch thu sung quỹ Nhà nước: Tiền Việt Nam 600.000 (sáu trăm nghìn) đồng; 01 điện thoại di động màu trắng đen, hiệu Nokia số Imel: 358976/01/803052/7, không kiểm tra tính năng.

- Truy tịch thu của bị cáo Lê Văn A sung quỹ Nhà nước số tiền 3.200.000 (ba triệu hai trăm nghìn) đồng.

3. Về án phí: 

Áp dụng Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Lê Văn A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về