Bản án 75/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN J, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 75/2019/HS-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn V, sinh năm 1986 tại H. Nơi cư trú: Tổ dân phố R, thị trấn P, huyện Thủy Nguyên, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Dưa và bà Đinh Thị Nhất; có vợ Tô Thị Thúy, chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Quyết định v/v đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh số 3458/QĐ-UBND ngày 05 tháng 8 năm 2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên; Quyết định v/v đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh số 4964/QĐ-UBND ngày 17 tháng 10 năm 2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên (đã được xóa); bị tạm giữ từ ngày 10 tháng 01 năm 2019 đến ngày 19 tháng 01 năm 2019 chuyển tạm giam; coa mặt.

2. Bùi Văn O, sinh năm 1975 tại H. Nơi cư trú: Tổ dân phố R, thị trấn P, huyện Thủy Nguyên, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Dưa và bà Đinh Thị Nhất; có vợ Phạm Thị Nguyệt và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 09 tháng 01 năm 2019 đến ngày 18 tháng 01 năm 2019 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đỗ Văn Nam, sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn 6, xã Ngũ Lão, huyện Thủy Nguyên, thành phố H; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn I; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn G; vắng mặt.

3. Anh Cao Văn Q; vắng mặt.

4. Anh Bùi Trường Y; vắng mặt.

6. Chị Bùi Thị S (tên gọi khác: Yến); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 30 phút ngày 09 tháng 01 năm 2019 tại nơi ở của Bùi Văn O ở tổ dân phố R, thị trấn P, huyện Thủy Nguyên, thành phố H, Công an huyện Thủy Nguyên kết hợp với Công an thị trấn P bắt quả tang Bùi Văn O bán trái phép chất ma túy cho Đỗ Văn Nam, sinh năm 1989, Nguyễn I, sinh năm 1991; nơi cư trú: Xã Ngũ Lão, huyện Thủy Nguyên, thành phố H và Nguyễn Văn G, sinh năm 1976; nơi cư trú: Xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Thu giữ của Bùi Văn O số tiền 300.000 đồng, thu giữ của Đỗ Văn Nam 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Văn O tại tổ dân phố R, thị trấn P, huyện Thủy Nguyên, thành phố H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên đã thu giữ: Tại mặt bể nước 01 hộp giấy màu đen kích thước 4x8x15cm bề mặt in dòng chữ HANY BEAUTY bên trong có 04 túi nilon chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy, 01 bật lửa, 01 dao lam, 01 đoạn ống hút nhựa màu hồng dài 4cm một đầu bằng một đầu vát nhọn, 01 lọ nhựa hình trụ cao 05cm in dòng chữ Berberin bên trong có 05 gói giấy gồm 02 gói giấy bạc và 03 gói giấy màu xanh bên trong đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel vỏ nhựa màu đen và 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế.

Bùi Văn O khai nguồn gốc 01 túi ma túy đá Bùi Văn O bán cho Đỗ Văn Nam là của Bùi Văn V (em ruột Bùi Văn O) nhờ Bùi Văn O bán cho Đỗ Văn Nam.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Văn V tại tổ dân phố R, thị trấn P, huyện Thủy Nguyên, thành phố H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên đã thu giữ: Tại mặt tủ lạnh trong phòng ngủ của Bùi Văn V rải rác trên diện 4x6cm có một số mảnh tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy; tại đỉnh hộp chân giường trong phòng ngủ của Bùi Văn V có 01 túi nilon kích thước 3x5cm bên trong bám dính tinh thể màu trắng nghi là chất ma túy; trong tủ đứng hai buồng có 01 ống hút nhựa màu hồng dài 06 cm một đầu bằng một đầu vát nhọn, 01 bật lửa ga, 01 dao lam, 01 kéo; dưới đệm giường ngủ của Bùi Văn V có 01 túi nilon kích thước 10x6cm bên trong có 16 vỏ túi nilon có kích thước khác nhau.

Tại bản Kết luận giám định số 21/KLGĐ(Đ6) ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H kết luận: 01 túi nilon kích thước 1x1,5cm chứa tinh thể màu trắng thu của Đỗ Văn Nam là ma túy có khối lượng 0,0112 gam, là loại Methamphetamine; 04 túi nilon chứa tinh thể màu trắng thu tại mặt bể nước nhà Bùi Văn O là ma túy có khối lượng 0,3243 gam, là loại Methamphetamine; 05 gói giấy chứa chất bột màu trắng thu tại mặt bể nước nhà Bùi Văn O là ma túy, có khối lượng 0,1207 gam là loại Heroine; tinh thể màu trắng thu tại mặt tủ lạnh nhà Bùi Văn V là ma túy có khối lượng 0,0083 gam là Methamphetamine; 01 túi nilon bám dính tinh thể màu trắng thu tại đỉnh hộp chân giường của Bùi Văn V không xác định được khối lượng là loại Heroine.

Ti Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, Bùi Văn V và Bùi Văn O khai: Do nghiện ma túy nên Bùi Văn V thường xuyên mua ma túy của người không quen biết để sử dụng và bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 09 tháng 01 năm 2019 Bùi Văn V đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Đỗ Văn Nam hỏi mua 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng, Bùi Văn V đồng ý và hẹn Đỗ Văn Nam đến ngõ nhà Bùi Văn V ở tổ dân phố R, thị trấn P, huyện Thủy Nguyên, thành phố H để mua bán. Sau đó Bùi Văn V mang theo 01 hộp giấy màu đen bên trong chứa 05 túi ma túy đá, 01 bật lửa, 01 dao lam, 01 đoạn ống hút nhựa, 01 lọ nhựa hình trụ bên trong chứa 05 gói ma túy heroine, 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel đi sang khu vực bể nước nhà Bùi Văn O để sử dụng ma túy đá. Tại đây Bùi Văn V nhờ Bùi Văn O bán 01 túi ma túy đá cho Đỗ Văn Nam lấy 300.000 đồng tại cổng nhà Bùi Văn V và hứa cho Bùi Văn O ma túy để sử dụng. Bùi Văn O đồng ý cầm 01 túi ma túy Bùi Văn V đưa đi ra ngõ chờ Đỗ Văn Nam. Khoảng 02 phút sau Đỗ Văn Nam đi cùng với Nguyễn I và Nguyễn Văn G đến, Bùi Văn O hỏi: Chú gặp ai thì Đỗ Văn Nam hỏi anh Vấn có nhà không, Bùi Văn O đáp nó đang ở trong nhà, chú là Nam à, Nam trả lời em là Nam đây. Sau đó Đỗ Văn Nam đưa cho Bùi Văn O số tiền 300.000 đồng, Bùi Văn O đưa cho Đỗ Văn Nam 01 túi ma túy đá. Khi Bùi Văn O và Đỗ Văn Nam vừa giao dịch mua bán ma túy xong thì bị Công an bắt quả tang. Số ma túy và đồ vật Công an thu giữ tại mặt bể nước nhà Bùi Văn O là của Bùi Văn V. Đây là lần đầu tiên Bùi Văn O bán ma túy hộ Bùi Văn V. Ngoài ra Bùi Văn V còn khai đã nhiều lần bán ma túy cho nhiều người là Đỗ Văn Nam, Nguyễn I, Nguyễn Văn G, Cao Văn Q, Nguyễn Thị S, Bùi Trường Y tại nơi ở của mình cụ thể như sau: Khoảng 21 giờ ngày 15 tháng 12 năm 2018 Bùi Văn V bán cho Bùi Trường Y 01 gói ma túy heroine với giá 100.000 đồng. Khoảng 17 giờ ngày 30 tháng 12 năm 2018 Bùi Văn V bán cho Nguyễn Thị S 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 06 tháng 01 năm 2019 Bùi Văn V bán cho Đỗ Văn Nam và Nguyễn I 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng. Khoảng 15 giờ ngày 07 tháng 01 năm 2019 Bùi Văn V bán cho Đỗ Văn Nam và Cao Văn Q 02 gói ma túy heroine với giá 100.000 đồng/gói. Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 08 tháng 01 năm 2019 Bùi Văn V bán cho Đỗ Văn Nam và Nguyễn Văn G 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng.

Ti Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, Đỗ Văn Nam, Nguyễn I, Nguyễn Văn G, Cao Văn Q, Nguyễn Thị S, Bùi Trường Y khai: Khoảng 21 giờ ngày 15 tháng 12 năm 2018 Bùi Trường Y mua 01 gói ma túy heroine với giá 100.000 đồng của Bùi Văn V để sử dụng. Khoảng 17 giờ ngày 30 tháng 12 năm 2018 Nguyễn Thị S mua 01 túi ma túy đá với giá 200.000 đồng của Bùi Văn V để sử dụng. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 06 tháng 01 năm 2019 Đỗ Văn Nam và Nguyễn I, mỗi người góp 150.000 đồng được 300.000 đồng mua 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng của Bùi Văn V để sử dụng. Khoảng 15 giờ ngày 07 tháng 01 năm 2019 Đỗ Văn Nam và Cao Văn Q, mỗi người góp 100.000 đồng được 200.000 đồng mua 02 gói ma túy heroine với giá 100.000 đồng/gói của Bùi Văn V để sử dụng. Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 08 tháng 01 năm 2019 Đỗ Văn Nam góp 200.000 đồng và Nguyễn Văn G góp 100.000 đồng được 300.000 đồng mua 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng của Bùi Văn V để sử dụng. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 09 tháng 01 năm 2019 Đỗ Văn Nam, Nguyễn I và Nguyễn Văn G, mỗi người góp 100.000 đồng được 300.000 đồng, Đỗ Văn Nam gọi điện thoại cho Bùi Văn V hỏi mua 01 túi ma túy đá với giá 300.000 đồng để sử dụng, Bùi Văn V đồng ý và hẹn Đỗ Văn Nam đến nhà Bùi Văn V để mua bán. Khi đến đầu ngõ nhà Bùi Văn V, Nguyễn I, Đỗ Văn Nam và Nguyễn Văn G gặp Bùi Văn O, Đỗ Văn Nam đưa cho Bùi Văn O số tiền 300.000 đồng, Bùi Văn O nhận tiền và đưa cho Đỗ Văn Nam 01 túi ma túy đá. Khi Đỗ Văn Nam và Bùi Văn O vừa giao dịch mua bán ma túy xong thì bị Công an bắt giữ.

Bản cáo trạng số 68/CT-VKSTN ngày 03 tháng 7 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện J, thành phố H truy tố bị cáo Bùi Văn V về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; Bùi Văn O về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn V và bị cáo Bùi Văn O đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H truy tố các bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy là đúng. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

Ti phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H trình bày lời luận tội đối với các bị cáo Bùi Văn V và Bùi Văn O, đề nghị kết tội các bị cáo Bùi Văn V, Bùi Văn O theo toàn bộ nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn V từ 09 năm đến 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 10 tháng 01 năm 2019). Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn O từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 09 tháng 01 năm 2019). Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Bùi Văn V và Bùi Văn O. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy chất ma túy, vỏ bao bì còn lại sau giám định trong 04 phong bì niêm phong có chữ ký của những người tham gia có dấu niêm phong số 21/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, 01 hộp giấy kích thước 4x8x15cm đã qua sử dụng, 01 đoạn ống hút nhựa dài 04cm đã qua sử dụng, 01 đoạn ống hút nhựa dài 06cm đã qua sử dụng, 01 lọ nhựa hình trụ cao 05cm đã qua sử dụng, 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế đã qua sử dụng, 01 kéo, 02 bật lửa, 02 dao lam đã qua sử dụng, 01 túi nilon bên trong chứa 16 vỏ túi nilon có kích thước khác nhau. Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng thu của Đỗ Văn Nam và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng thu của Bùi Văn V. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng thu của bị cáo Bùi Văn O. Truy thu số tiền bị cáo Bùi Văn V bán ma túy vào các ngày 15 tháng 12 năm 2018, ngày 30 tháng 12 năm 2018, ngày 06 tháng 01 năm 2019, ngày 07 tháng 01 năm 2019 và ngày 08 tháng 01 năm 2019 để sung vào ngân sách nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo Bùi Văn V và Bùi Văn O tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định số 21/KLGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, vật chứng thu giữ, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, công bố công khai tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Do nghiện ma túy nên bị cáo Bùi Văn V đã thực hiện hành vi mua ma túy để sử dụng và bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Trong vụ án này xác định bị cáo Bùi Văn V đã thực hiện hành vi cất giấu 0,1207 gam ma túy là loại Heroine và 0,3243 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích bán trái phép cho người khác và đã thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy nhiều lần cho nhiều người là Đỗ Văn Nam, Nguyễn I, Nguyễn Văn G, Cao Văn Q, Nguyễn Thị S, Bùi Trường Y vào các ngày 15 tháng 12 năm 2018, ngày 30 tháng 12 năm 2018, ngày 06 tháng 01 năm 2019, ngày 07 tháng 01 năm 2019, ngày 08 tháng 01 năm 2019 và ngày 09 tháng 01 năm 2019 tại nơi ở của mình tại tổ dân phố R, thị trấn P, huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Do đó bị cáo Bùi Văn V đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý với tình tiết định khung hình phạt là phạm tội 02 lần trở lên, đối với 02 người trở lên theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Bùi Văn O đã thực hiện hành vi bán trái phép 01 túi ma túy có khối lượng 0,0112 gam ma túy là loại Methamphetamine cho Đỗ Văn Nam hộ bị cáo Bùi Văn V vào ngày 09 tháng 01 năm 2019 tại tổ dân phố R, thị trấn P, huyện Thủy Nguyên, thành phố H thì bị bắt quả tang. Do đó bị cáo Bùi Văn O phạm tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện J, thành phố H truy tố và đề nghị kết tội bị cáo Bùi Văn V về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, bị cáo Bùi Văn O về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng điều luật.

[3] Xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò, nhân thân của từng bị cáo và quyết định hình phạt:

Hành vi phạm tội của các bị cáo Bùi Văn V và Bùi Văn O đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng, gây mất trật tự trị an xã hội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Bùi Văn V và bị cáo Bùi Văn O không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn V và bị cáo Bùi Văn O đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Bùi Văn O không có tiền án, tiền sự. Bị cáo Bùi Văn V đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh 02 lần theo Quyết định đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh số 3458/QĐ-UBND ngày 05 tháng 8 năm 2009 và Quyết định đưa đối tượng nghiện ma túy vào cơ sở chữa bệnh số 4964/QĐ-UBND ngày 17 tháng 10 năm 2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Thủy Nguyên.

Đây là vụ án đồng phạm có nhiều người tham gia nên cần xem xét tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo để làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt. Trong vụ án này xác định bị cáo Bùi Văn V là người trực tiếp mua ma túy để bán và đưa ma túy cho Bùi Văn O để bán nên giữ vai trò chính. Bị cáo Bùi Văn O bán ma túy hộ Bùi Văn V nên giữ vai trò thấp hơn bị cáo Bùi Văn V.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và vai trò của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét cần thiết bị cáo Bùi Văn V phạm tội rất nghiêm trọng, bị cáo Bùi Văn O phạm tội nghiêm trọng và đều là người nghiện ma túy nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt trên khởi điểm của khung hình phạt theo đề nghị của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H tại phiên tòa đối với các bị cáo, buộc bị cáo Bùi Văn V và bị cáo Bùi Văn O phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo Bùi Văn V và bị cáo Bùi Văn O đều là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Bùi Văn O và bị cáo Bùi Văn V.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xác định chất ma túy, vỏ bao bì còn lại sau giám định trong 04 phong bì niêm phong có chữ ký của những người tham gia có dấu niêm phong số 21/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ; 01 hộp giấy kích thước 4x8x15cm đã qua sử dụng, 01 đoạn ống hút nhựa dài 04cm đã qua sử dụng, 01 đoạn ống hút nhựa dài 06cm đã qua sử dụng, 01 lọ nhựa hình trụ cao 05cm đã qua sử dụng, 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế đã qua sử dụng, 01 kéo, 02 bật lửa, 02 dao lam đã qua sử dụng, 01 túi nilon bên trong chứa 16 vỏ túi nilon có kích thước khác nhau là vật liên quan đến việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng thu của Đỗ Văn Nam và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng thu của Bùi Văn V xác định là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước. Đối với số tiền 300.000 đồng thu của bị cáo Bùi Văn O là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Truy thu số tiền 1.100.000 đồng của bị cáo Bùi Văn V do bán ma túy vào các ngày 15 tháng 12 năm 2018, ngày 30 tháng 12 năm 2018, ngày 06 tháng 01 năm 2019, ngày 07 tháng 01 năm 2019 và ngày 08 tháng 01 năm 2019 để sung vào ngân sách nhà nước.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Bùi Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Bùi Văn O phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Trong vụ án này Đỗ Văn Nam, Nguyễn I và Nguyễn Văn G mua ma túy của Bùi Văn V để sử dụng cho bản thân, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng ma túy thu giữ không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Thủy Nguyên đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Nguyễn Thị S, Bùi Trường Y và Cao Văn Q mua ma túy của Bùi Văn V để sử dụng cho bản thân nhưng không thu giữ được ma túy nên Công an huyện Thủy Nguyên đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng quy định pháp luật.

Tô Thị Thúy là vợ Bùi Văn V biết và chứng kiến Bùi Văn V bán ma túy nhưng Tô Thị Thúy không tham gia bán ma túy cùng với Bùi Văn V nên Công an huyện Thủy Nguyên không xử lý. Đối tượng bán ma túy cho Bùi Văn V, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lý lịch nên không có cơ sở để điều tra là có căn cứ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn V 09 (chín) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 10 tháng 01 năm 2019).

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn O 03 (ba) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 09 tháng 01 năm 2019).

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy, vỏ bao bì còn lại sau giám định trong 04 phong bì niêm phong có chữ ký của những người tham gia có dấu niêm phong số 21/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, 01 hộp giấy kích thước 4x8x15cm đã qua sử dụng, 01 đoạn ống hút nhựa dài 04cm đã qua sử dụng, 01 đoạn ống hút nhựa dài 06cm đã qua sử dụng, 01 lọ nhựa hình trụ cao 05cm đã qua sử dụng, 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá tự chế đã qua sử dụng, 01 kéo, 02 bật lửa, 02 dao lam đã qua sử dụng, 01 túi nilon bên trong chứa 16 vỏ túi nilon có kích thước khác nhau (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố H).

- Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen đã qua sử dụng (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố H).

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng thu của bị cáo Bùi Văn O theo biên lai thu tiền số 0000209 ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố H.

- Truy thu số tiền 1.100.000 đồng (Một triệu một trăm nghìn đồng) của bị cáo Bùi Văn V để sung vào ngân sách nhà nước.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Bùi Văn V phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Bùi Văn O phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2019/HS-ST ngày 30/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về