Bản án 76/2017/HSPT ngày 26/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 76/2017/HSPT NGÀY 26/09/2017 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐ

Ngày 26 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2017/HSPT ngày 01 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Huy C do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 47/2017/HSST ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố B.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Huy C

Sinh năm 1980 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: Số xxxx/x, Ấp x, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre; số chứng minh nhân dân: xxxxxxxxx; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; Con ông Nguyễn Văn T và bà Huỳnh Thị B; có vợ: Trần Thị Ngọc Đ và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo tại ngoại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 40 phút ngày 04-12-2016, sau khi đã uống bia, Nguyễn Huy C (không có giấy phép lái xe hạng A1) điều khiển xe môtô biển số 71xx-xxxx của Trần Thị Ngọc H (Sinh năm 1979; ĐKTT: Số xxx/x, Ấp x, xã S, thành phố B) lưu thông trên đường V hướng từ vòng xoay Phường x về vòng xoay T, thành phố B. Khi đến đoạn thuộc Khu phố x, phường P, thành phố B, mặc dù Nguyễn Huy C đã phát hiện phía trước có ông Nguyễn Quốc H2 (Sinh năm 1966; ĐKTT: Số xxx, Khu phố x, phường P, thành phố B) đang đi bộ hướng từ lề phải (theo hướng xe C chạy) để qua dãy phân cách cứng và đã qua đến làn đường dành cho xe ôtô tải nhưng Nguyễn Huy C không giảm tốc độ, nhường đường cho ông H2 đi qua mà Nguyễn Huy C vẫn điều khiển xe môtô biển số 71xx-xxxx chạy lấn sang làn đường dành cho xe ôtô tải để vượt qua mặt ông H2 nên tay cầm lái bên trái của xe môtô do Nguyễn Huy C điều khiển đụng vào hông phải của ông H2 làm ông H2 ngã xuống đường, bị chấn thương nặng vùng đầu và đã tử vong lúc 19 giờ 50 phút cùng ngày trên đường đưa đi cấp cứu.

Phương tiện và các giấy tờ tạm giữ gồm:

- 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha, màu đỏ, biển số71xx-xxxx, số khung: xxxxxxxxxx, số máy: x-xxxxxxxxx.

- 01 bao thuốc lá.

- 01 chiếc dép.

- 01 giấy đăng ký xe môtô biển số 71xx-xxxx mang tên Trần Thị Ngọc H.

Theo sơ đồ hiện trường và biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 20 giờ ngày 04-12-2016 ghi nhận:

Hiện trường bị xáo trộn một phần do công tác cấp cứu nạn nhân và các phương tiện giao thông qua lại.

Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, được trải nhựa có phân cách cứng ở giữa chia mặt đường thành 02 phân đường xe chạy riêng biệt, mỗi (phần đường áp dụng xe lưu thông 01 chiều. Phần đường nơi xảy ra tai nạn là phần đường bên phải theo hướng từ vòng xoay Phường x về vòng xoay T, rộng 10,5 mét gồm có 03 làn đường: Làn đường bên phải dành cho các loại xe môtô và xe thô sơ, làn đường giữa dành cho các loại xe ôtô tải và xe khách từ 30 chỗ ngồi trở lên, làn đường bên trái dành cho xe ôtô con và xe khách dưới 30 chỗ ngồi.

Chọn hướng từ vòng xoay Phưòng x về vòng xoay T làm hướng chuẩn.

Chọn mép bên phải dãy phân cách cứng ở giữa theo hướng chuẩn làm chuẩn.

Chọn trụ đèn số 03 nằm trên dãy phân cách cứng ở giữa làm điểm mốc cố định.

- Xe môtô biển số 71xx-xxxx sau khi gây ra tai nạn ngã về bên trái, đầu xe quay về phía dãy phân cách, trục bánh xe trước nằm trên làn đường bên trái, trục bánh xe sau nằm trên làn đường ở giữa. Khoảng cách từ tâm trục bánh xe trước đến mép chuẩn là 3,8 mét, khoảng cách từ tâm trục bánh xe sau đến mép chuẩn là 4,9 mét, đến điểm mốc cố định là 8,5 mét và để lại 02 vết cày:

+ Vết cày 1 dài 1,9 mét do mặt ngoài cần đạp khởi động máy tạo thành nằm trên làn đường bên trái, khoảng cách từ điểm đầu vết cày 1 đến mép chuẩn là 3,7 mét và khoảng cách từ điểm cuối vết cày 1 đến mép chuẩn là 3,8 mét. Khoảng cách từ điểm đầu vết cày 1 đến điểm mốc cố định là 16,9 mét.

+ Vết cày 2 dài 3,2 mét do mặt ngoài bên trái khung chắn bùn bánh xe trước tạo thành. Điểm đầu vết cày 2 nằm trên làn đường ở giữa. Khoảng cách từ điểm đầu vết cày 2 đến mép chuẩn là 4,2 mét. Điểm cuối vết cày 2 nằm trên làn đường bên trái trùng với mặt ngoài bên trái khung chắn bùn bánh xe trước. Khoảng cách từ điểm cuối vết cày 2 đến mép chuẩn là 3,8 mét.

+ Khoảng cách giữa điểm đầu vết cày 1 và điểm đầu vết cày 2 là 6,0 mét.

- Tại hiện trường có 02 vết máu:

+ Vết máu 1 nằm trên làn đường bên trái có kích thước 0,4 x 0,25 mét. Khoảng cách từ tâm vết máu 1 đến mép chuẩn là 2,9 mét, đến tâm trục bánh xe trước là 0,7 mét.

+ Vết máu 2 nằm trên làn đường bên trái có kích thước 0,25 x 0,2 mét. Khoảng cách từ tâm vết máu 2 đến mép chuẩn là 2,9 mét, đến tâm trục bánh xe trước là 1,2 mét.

+ Khoảng cách giữa tâm vết máu 1 và tâm vết máu 2 là 0,7 mét.

Theo biên bản khám nghiệm phương tiện giao thông lập lúc 09 giờ ngày 08/12/2016 đối với xe môtô biển số 71xx-xxxx, xác định:

- Gương chiếu hậu bên trái bị gãy mất.

- Ốp mũ bảo vệ đầu xe phía trên bị bể rời khỏi vị trí ban đầu, ốp mũ bảo vệ đèn chuyển hướng 2 bên phía trên bị bể rời khỏi vị trí ban đầu.

- Đầu tay thắng bên trái bị ma sát mài mòn kích thước 1 x 1 cm.

- Ốp mũ bên trái phía trước bị nứt, kích thước 9 x 2 cm.

- Mặt ngoài ốp mũ bên trái phía trước bị ma sát mài mòn kích thước 22 x 1 cm.

- Mặt ngoài bên trái ốp mũ dưới gầm xe bị ma sát mài mòn tạo thành vùng kích thước 30 x 15 cm.

- Ốp mũ bảo vệ đèn chiếu sáng phía dưới, phía trước bên trái bị bể nứt, kích thước 17 x 6 cm.

- Khung chắn bùn bánh xe trước mặt ngoài bên trái bị trầy xước bong tróc sơn, kích thước 26 x 8 cm.

- Mặt ngoài ốp mũ bên dưới gác chân người ngồi sau bị ma sát mài mòn, kích thước 13 x 6 cm.

- Gác chân chống nghiêng bị cong từ trước ra sau, mặt ngoài có vết ma sát mài mòn, kích thước 2 x 0,5 cm.

- Mặt ngoài bộ phận đạp của gác chống đứng bị ma sát mài mòn, kích thước 4 x 1 cm

- Mặt ngoài cần đạp khởi động máy bị ma sát mài mòn, kích thước 10 x 2,5 cm.

- Mặt ngoài cản xe phía sau bên trái bị ma sát mài mòn, kích thước 8 x 1,5 cm.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 157-1216/TT ngày 09-01-2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Bến Tre kết luận: Nguyễn Quốc H2 tử vong do chấn thương sọ não/tai nạn giao thông.

Theo phiếu đo nồng độ cồn của Đội Cảnh sát giao thông Công an thành phố B lập lúc 21 giờ 43 phút ngày 04-12-2016 đối với Nguyễn Huy C, xác định: Nồng độ cồn trong hơi thở của C là 0,555mg/1 lít khí thở.

Quá trình điều tra, Nguyễn Huy C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả thực nghiệm điều tra và các chứng cứ khác đã thu thập được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trao trả cho chị H 01 xe môtô nhãn hiệu Yamaha, màu đỏ, biển số 71xx-xxxx và 01 giấy đăng ký xe môtô biển số 71xx-xxxx mang tên Trần Thị Ngọc H; Trả cho Nguyễn Quốc C2 (con ruột nạn nhân H2 - đại diện phía bị hại nhận) 01 bao thuốc lá và 01 chiếc dép. Bị cáo Nguyễn Huy C đã thỏa thuận và bồi thường xong chi phí điều trị, mai táng và các khoản chi phí khác cho phía gia đình bị hại tổng cộng là 60.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo và đại diện của người bị hại thỏa thuận bồi thưòng thêm 15.000.000 đồng, đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 47/2017/HSST ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố B đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy C phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy C 01 (một) năm 06 (sáu tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04-8-2017 bị cáo Nguyễn Huy C kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm, bị cáo không thay đổi yêu cầu kháng cáo.

Kiểm sát viên với quan điểm: Về thủ tục tố tụng, đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định. Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Lời nói sau cùng, bị cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt tù.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tai phiên tòa, trên cơ sở xem xét, đầy đủ, toàn diện, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Qua lời khai của bị cáo kết hợp chứng cứ đã được thu thập có cơ sở xác định. Vào khoảng 19 giờ 40 phút ngày 04-12-2016, sau khi đã uống bia, bị cáo Nguyễn Huy C không có giấy phép lái xe đã điều khiển xe môtô biển số 71xx-xxxx tham gia lưu thông trên đường V theo hướng từ vòng xoay Phường x về vòng xoay T. Khi đến đoạn thuộc Khu phố x, phường P, thành phố B, bị cáo điều khiển xe tránh, vượt qua mặt người bị hại để xe va chạm vào người ông Nguyễn Quốc H2 làm ông H2 ngã xuống đường với tình tiết vụ tai nạn phù hợp nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Hậu quả làm ông H2 chết do chấn thương sọ não. Xét lỗi thì khi tham gia giao thông bị cáo đi không đúng làn đường, thiếu chú ý quan sát, xử lý tình huống không an toàn dẫn đến tai nạn.

[2] Với ý thức, hành vi, lỗi và hậu quả do bị cáo đã gây ra, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy C phạm “Tôi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Hình sự với hai tình tiết định khung tăng nặng “Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định” và “Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá mức quy định” la có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng như: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; người bị hại cũng có lỗi, đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đang nuôi con chưa thành niên nên đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ mới để xem xét cho yêu cầu kháng cáo. Bị cáo phạm vào nhiều tình tiết định khung tăng nặng, hậu quả chết người là nghiêm trọng, mức hình phạt tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, cũng như đề nghị của Kiểm sát viên. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 47/2017/HSST ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bến Tre.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huy C phạm “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Huy C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

[2] Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo Nguyễn Huy C phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

388
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2017/HSPT ngày 26/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐ

Số hiệu:76/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về