Bản án 76/2018/HSST ngày 23/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯM’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 76/2018/HSST NGÀY 23/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đăk Lăk xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 74/2018/HSST ngày 31 tháng 10 năm 2018, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74 /2018/HSST-QĐ ngày 06 /11/2018 đối với:

Bị cáo: Trịnh Hoài Q (Tên gọi khác: QL), sinh ngày 24 tháng 4 năm 1988, tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở trước khi phạm tội: Tổ dân phố 3, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 5/12; Nghề nghiệp: Không; Tiền sự: không; Tiền án: 01.

Tại Bản án số 29/2017/HSST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số 01 ngày 13/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn đã xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, đến ngày 07/7/2018 thì chấp hành xong hình phạt.

Họ và tên cha: Trịnh Hoài Đ (đã chết). Họ và tên mẹ: Huỳnh Thị L, hiện không xác định được nơi ở. Bị cáo chưa có vợ, con;

Nhân thân: Từ nhỏ sống với cha mẹ tại Tổ dân phố 3, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, học đến lớp 5/12 thì nghỉ học ở nhà. Ngày 05/9/2005 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số3423, đã chấp hành xong quyết định. Ngày 26/5/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án hình sự phúc thẩm số 138. ngày 01/7/2011 bị Tòa án nhân dân huyện CưM’gar tuyên phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án hình sự sơ thẩm số 54. Ngày 13/8/2012 bị Tòa án nhân dân huyện CưM’gar tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo bản án hình sự sơ thẩm số 73. Ngày 29/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án hình sự sơ thẩm số 29. Các bản án Trịnh Hoài Q đã chấp hành xong hình phạt và các khoản phí theo quy định của pháp luật. Ngày 02 tháng 9 năm 2018 có hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 08 tháng 9 năm 2018 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2018 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1965 (vắng mặt, có đơn) Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đăk Lăk.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trịnh Hoài K (có mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Hoài Q, sinh năm 1988, trú tại Tổ dân phố 3, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đắk Lắk đã bị Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn tuyên xử về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 29/2017/HSST ngày 29/9/2017 và chưa được xóa án tích. Vào khoảng 03 giờ ngày 02 tháng 9 năm 2018, tại nhà kho của gia đình ông Đỗ Văn T thuộc Tổ dân phố 2, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, Trịnh Hoài Q lại tiếp tục lén lút thực hiện hành vi lấy 01 rổ nhựa màu đỏ bên trong đựng 119 quả trứng vịt gồm 89 quả trứng vịt th ường và 30 quả trứng vịt lộn, bị bắt quả tang.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Đắk Lắk đã tạm giữ: 01 rổ nhựa màu đỏ kích thước (28 x 45 x 11)cm; 119 quả trứng; 01 xe mô tô biển kiểm soát 47M2-3798 nhãn hiệu YAMAHA, loại xe NOVO, màu sơn đen, số khung 2B5607Y009531, số máy 2B56009531; 01 con dao Thái Lan có đặc điểm: cán màu vàng dài 10cm, lưỡi bằng kim loại dài 10,5cm;01 roi điện có đặc điểm: hình hộp chữ nhật kích thước (1,5x2,5x8,5)cm, vỏ bằng kim loại màu đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 67/KL -HĐĐGTS, ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện C đã kết luận:01 rổ nhựa màu đỏ kích thước 28cm x 45cm x 11cm giá trị còn lại: 15.000đ; 89 quả trứng vịt loại trứng thường có giá: 89 quả x 2.500 đồng/quả = 222.500 đồng; 30 quả trứng vịt lộn trị có giá: 30 quả x 3.500 đồng/quả = 105.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 342.500 đồng (Ba trăm bốn mươi hai ngàn năm trăm đồng).

Ngày 08 tháng 9 năm 2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CưM’gar ra Quyết định xử lý vật chứng số 67 trả lại 01 rổ nhựa màu đỏ kích thước (28 x 45 x 11)cm và 119 quả trứng vịt (89 quả trứng thường, 30 quả trứng vịt lộn) cho ông Đỗ Văn T là chủ sở hữu hợp pháp, vì việc trả lại tài sản trên không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Đỗ Văn T không có yêu cầu gì về phần dân sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trịnh Hoài Q như nội dung bản cáo trạng và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trịnh Hoài Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, căn cứ các điểm h,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Trịnh Hoài Q từ 06 đến 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/9/2018 bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam và các biện pháp tư pháp khác.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến đối đáp tranh luận gì, bị cáo nói lời sau cùng mong được Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà;căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện CưM’gar, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CưM’gar, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa bị cáo Trịnh Hoài Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận ngày 02 tháng 9 năm 2018 bị cáo Trịnh Hoài Q thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

a)...

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại là khách thể luôn được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lựctrách nhiệm hình sự nên biết mọi hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật đều bị trừng trị nghiêm khắc. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, vì động cơ vụ lợi và bị kết án tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nhưng ngày 02 tháng 9 năm 2018 bị cáo đã trộm cắp tài sản của ông T có tổng giá trị là 342.500 đồng (Ba trăm bốn mươi hai ngàn năm trăm đồng) nên bị cáo phải chịu mức hình phạt đủ nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội .

Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo Trịnh Hoài Q đã thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản trộm cắp đã được trả lại cho người bị hại nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt. Ngày 05/9/2005 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện CưM’gar, tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số 3423, đã chấp hành xong quyết định. Ngày 26/5/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án hình sự phúc thẩm số 138. ngày 01/7/2011 bị Tòa án nhân dân huyện CưM’gar tuyên phạt01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án hình sự sơ thẩm số 54. Ngày 13/8/2012 bị Tòa án nhân dân huyện CưM’gar tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo bản án hình sự sơ thẩm số 73. Ngày 29/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk tuyên phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án hình sự sơ thẩm số 29. Các bản án Trịnh Hoài Q đã chấp hành xong hình phạt và các khoản phí theo quy định của pháp luật nhưng sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo không lấy đó làm bài học để tự tu dưỡng mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Với tính chất mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.

Trong vụ án này Trịnh Hoài Q lấy xe mô tô biển kiểm soát 47M2-3798 của Trịnh Hoài K đi, tuy nhiên Không không biết Q sử dụng xe mô tô này để làm phương tiện thực hiện hành vi trộm cắp. Do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CưM’gar không đề cập xử lý hình sự đối với Trịnh Hoài K với vai trò đồng phạm là phù hợp.

[3] Về vật chứng: Xét ngày 08 tháng 9 năm 2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CưM’gar ra Quyết định xử lý vật chứng số 67 trả lại 01 rổ nhựa màu đỏ kích thước (28 x 45 x 11)cm và 119 quả trứng vịt (89 quả trứng thường,30 quả trứng vịt lộn) cho ông Đỗ Văn T là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp với điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự nên cần chấp nhận.Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 47M2-3798 nhãn hiệu YAMAHA, loại xe NOVO, màu sơn đen, số khung 2B5607Y009531, số máy 2B56009531 Trịnh Hoài K là chủ sở hữu hợp pháp. Bị cáo điều khiển đi để chở trứng trộm cắp được nhưng Trịnh Hoài K không biết nên cần trả xe cho Trịnh Hoài K là phù hợp.

Đối với 01 roi điện có đặc điểm: hình hộp chữ nhật kích thước (1,5x2,5x8,5)cm, vỏ bằng kim loại màu đồng là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội nên áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 con dao Thái Lan có đặc điểm: cán màu vàng dài 10 cm, lưỡi bằng kim loại dài 10,5cm là của Trịnh Hoài K. Dao đã cũ. Anh K từ chối nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Đỗ Văn T không có yêu cầu gì nên không đề cập xử lý.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Hoài Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng khoản điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trịnh Hoài Q 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm tạm giữ, tạm giam ngày 02/9/2018.

[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CưM’gar trả 01 rổ nhựa màu đỏ,119 quả trứng vịt (89 quả trứng thường, 30 quả trứng vịt lộn) cho ông Đỗ Văn T là chủ sở hữu hợp pháp.

Trả 01 xe mô tô biển kiểm soát 47M2-3798 nhãn hiệu YAMAHA, loại xe NOVO, màu sơn đen, số khung 2B5607Y009531, số máy 2B56009531 cho Trịnh Hoài K.

Tịch thu tiêu hủy 01 roi điện có đặc điểm: hình hộp chữ nhật kích thước (1,5x2,5x8,5)cm, vỏ bằng kim loại màu đồng và 01 con dao Thái Lan có đặc điểm: cán màu vàng dài 10 cm, lưỡi bằng kim loại dài 10,5cm.

Tất cả các tài sản nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08 tháng 11 năm 2018 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện CưMgar với Chi cục Thi hành án dân sự huyện CưMgar.

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Trịnh Hoài Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

431
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2018/HSST ngày 23/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:76/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về