Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 76/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 410/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự.

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thu H, sinh năm 1985; thường trú: 5A/9, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Bị đơn: Ông Hồ Chí E, sinh năm 1983; thường trú: 5A/9, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương.

Bà Lê Thị Thu H có yêu cầu giải quyết vắng mặt ngày 28/6/2019, ông Hồ Chí E vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 23/4/2019, đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 08/5/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị Thu H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thu H và ông Hồ Chí E tìm hiểu, chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường 19, quận B, thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 03/12/2004 theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 120, quyển số 01/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẩn là do ông Hồ Chí E sống không có trách nhiệm với gia đình, tự ý bỏ nhà đi từ năm 2015 đến nay không sống chung cùng vợ con. Bà H xác định tình cảm không còn nên yêu cầu được ly hôn với ông Hồ Chí E.

Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng có một con chung là cháu Hồ Quốc N, sinh ngày 15/9/2011. Sau khi ly hôn, bà Lê Thị Thu H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông Hồ Chí E cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Hồ Chí E đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào ngày 15/7/2019 và ngày 17/5/2019 nhưng vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định.Về nội dung vụ án, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Bà Lê Thị Thu H khởi kiện “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” được quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn có địa chỉ tại số 5A/9, khu phố T, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Ngày 28/6/2019 nguyên đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 15/7/2019 và ngày 31/7/2019 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thu H và ông Hồ Chí E kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 19, quận B, thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 03/12/2004 theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 120, quyển số 01/2004 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Bà Lê Thị Thu H xác định từ khi kết hôn cho đến năm 2015 vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2015 đến nay ông Hồ Chí E tự ý bỏ nhà ra ngoài sinh sống và không có trách nhiệm với vợ con. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên bà Lê Thị Thu H yêu cầu được ly hôn với ông Hồ Chí E. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập ông Hồ Chí E đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông Hồ Chí E không có mặt. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của ông Hồ Chí E và bà Lê Thị Thu H đã thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt.

Việc ông Hồ Chí E bỏ mặc không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với bà Lê Thị Thu H cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà Lê Thị Thu H và ông Hồ Chí E đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của bà Lê Thị Thu H.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Hồ Quốc N, sinh ngày 15/9/2011. Bà Lê Thị Thu H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Hồ Chí E cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét về mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Quá trình tố tụng, ông Hồ Chí E vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý chí mong muốn được nuôi con. Trong thời gian trước đây và hiện nay con chung vẫn do bà Lê Thị Thu H nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt. Cháu Hồ Quốc N có nguyện vọng được sống chung với mẹ nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có cơ sở để chấp nhận nguyện vọng của bà Lê Thị Thu H là được tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Hồ Quốc N. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị Thu H không yêu cầu ông Hồ Chí E cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Thu H phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Thu H được ly hôn với ông Hồ Chí E. (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số số 120, quyển số 01/2004 do Ủy ban nhân dân phường 19, quận B, thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 03/12/2004).

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung là cháu Hồ Quốc N, sinh ngày 15/9/2011 cho bà Lê Thị Thu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Trường hợp ông Hồ Chí E vi phạm quyền nuôi con chung của bà Lê Thị Thu H thì bà Lê Thị Thu H có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án có thẩm quyền buộc ông Hồ Chí E giao con chung cho bà Lê Thị Thu H nuôi dưỡng theo quyết định của Tòa án. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Lê Thị Thu H không yêu cầu ông Hồ chí E cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, bà Lê Thị Thu H và ông Hồ Chí E đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp ông Hồ Chí E lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc bà Lê Thị Thu H nuôi con thì bà Lê Thị Thu H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Thu H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí về ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí bà Lê Thị Thu H đã nộp theo biên lai số 0028496 ngày 02/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

5. Án xử công khai, tuyên án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

6. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:76/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về