Bản án 76/2019/HSST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 76/2019/HSST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Dương Tn S, sinh năm 1983 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phường 9, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi sinh sống: Như trên; nghề nghiệp: Sửa điện thoại; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Tấn T và bà Huỳnh Thị H; có vợ và 01 con;

Tiền án:

+ Ngày 19/8/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, theo Bản án số 101/HSST, bị cáo đã thi hành án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng vào ngày 27/12/2014; chấp hành xong hành phạt tù vào ngày 11/01/2017.

+ Ngày 08/4/2003, bị Tòa án nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm giữ nguyên án sơ thẩm tuyên phạt 03 năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản”, theo Bản án số 481/HSPT (bị cáo chưa đóng án phí).

Tiền sự: Không;

Bị bắt, tạm giam ngày từ 04/12/2018; bị cáo có mặt tại phiên tòa;

* Người tham gia tố tụng khác:

1/ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Lâm Kim L, sinh năm 1960 – vắng mặt.

Nơi cư trú: Phường 11, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1983 – có mặt.

Nơi cư trú: thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1952 – vắng mặt.

Nơi cư trú: thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Người làm chứng: Ông Nguyễn Quốc T, sinh năm 2000 – vắng mặt.

Nơi cư trú: Phường 10, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ 40 phút ngày 4/12/2018, tại trước địa chỉ C3/23D, tổ 189, ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Công an xã Bình Hưng kết hợp với lực lượng tuần tra đặc nhiệm phía nam tiến hành kiểm tra Dương Tấn S khi S đang điều khiển xe môtô biển số 59M1-737.44. Qua kiểm tra phát hiện, thu giữ trong chiếc giày bên trái của S đang mang 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, S khai nhận là ma túy tổng hợp (loại hàng đá) do S mua của người khác với mục đích để sử dụng nên Công an xã Bình Hưng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với S, sau đó lập hồ sơ ban đầu chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra xử lý. Qua test ma tuý cho thấy S có sử dụng ma tuý.

Tại bản Kết luận giám định số138/KLGĐ-H ngày 12/2/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu thu giữ của Dương Tấn S, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5228g (không phẩy năm hai hai tám gram), loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh Dương Tấn S khai nhận là người thường xuyên sử dụng ma túy. Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 03/12/2018, S tình cờ gặp người bạn tên D (không rõ lai lịch) tại khu vực chợ Nhật Tảo thuộc Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, D rủ S đi mua ma túy sử dụng, S đồng ý. S điều khiển xe mô tô biển số 59M1-737.44 chở D đi theo hướng dẫn của D đến khu vực Quận 4. Tại đây, S đưa cho D 300.000 đồng để D trực tiếp giao dịch mua 01 gói ma túy từ người đàn ông (không rõ lai lịch) rồi đưa cho S. S cất giấu vào bên trong chiếc giày vải bên trái đang mang. Rồi cả hai đi tìm địa điểm để sử dụng ma túy thì vợ S điện thoại kêu S về. Lúc này, D xuống xe còn S chạy về đến trước địa chỉ C3/23D, tổ 189, ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an kiểm tra phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Về vật chứng:

- 01 xe môtô biển số 59M1-737.44, có số khung D4D-458738, số máy: EM9B-458738. S khai chiếc xe này được gia đình bên vợ cho để cả hai vợ chồng cùng sử dụng cho sinh hoạt hàng ngày. Qua xác minh được biết xe này do bà Lâm Kim L đứng tên chủ sở hữu, bà L tặng cho ông Nguyễn Văn N, sau đó ông N giao cho vợ chồng S sử dụng từ năm 2017. Hiện bà L, ông N, bà Nguyễn Thị Thu T (vợ S) không có yêu cầu nhận lại xe mà giao cho Cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định.

- 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng là 0,5228 gam, loại Methamphetamine. Sau giám định được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 138/19 có chữ ký của Dương Tấn S và hình dấu Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh; cùng chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh C và chữ ký CBĐT Dương Mạnh C.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đỏ là của S, S sử dụng chiếc điện thoại này vào việc giao dịch sinh hoạt hằng ngày, không sử dụng vào việc phạm tội.

- 01 đôi giày vải thu giữ của S.

Tại bản cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 22 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Dương Tấn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Dương Tấn S từ 03 đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”,

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng là 0,5228 gam, loại Methamphetamine và 01 đôi giày vải.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 xe môtô biển số 59M1-737.44, có số khung D4D-458738, số máy: EM9B-458738.

Giao trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đỏ.

Bị cáo Dương Tấn S khai nhận hành vi như trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thu T trình bày: Bà T là vợ của bị cáo S, chiếc xe môtô biển số 59M1-737.44 là xe của cha của bà T giao cho vợ chồng bà Thảo để sử dụng chung trong gia đình, việc bị cáo sử dụng chiếc xe trên đi mua ma túy bà T không biết. Do chiếc xe có giá trị thấp nên bà T không yêu cầu lấy lại chiếc xe trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét thấy lời khai tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng tại cơ quan điều tra, vật chứng của vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý và sử dụng chất ma túy của Nhà nước, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội và các loại tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Số ma túy thu giữ của bị cáo, qua giám định có khối lượng 0,5228 gam, loại Methamphetamine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017

[3] Xét về nhân thân bị cáo có nhân thân xấu:

Ngày 19/8/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, theo Bản án số 101/HSST, bị cáo đã thi hành án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng vào ngày 27/12/2014, chấp hành xong hành phạt tù vào ngày 11/01/2017.

Ngày 08/4/2003, bị Tòa án nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm giữ nguyên án sơ thẩm tuyên phạt 03 năm tù giam về tội “Cướp giật tài sản”, theo Bản án số 481/HSPT (bị cáo chưa đóng án phí).

Tính đến lần phạm tội này bị cáo chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, cần buộc bị cáo phải chấp hành phạt tù trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai cáo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu, qua giám định là ma tuý ở thể rắn có khối lượng là 0,5228 gam, loại Methamphetamine. Sau giám định được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 138/19 có chữ ký của Dương Tấn S và hình dấu Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh; cùng chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh C và chữ ký CBĐT Dương Mạnh C. Xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 xe môtô biển số 59 M1-737.44, có số khung D4D-458738, số máy: EM9B-458738. Bị cáo khai chiếc xe này được gia đình bên vợ cho để cả hai vợ chồng cùng sử dụng cho sinh hoạt hàng ngày. Qua xác minh được biết xe này do bà Lâm Kim L đứng tên chủ sở hữu, bà L tặng cho ông Nguyễn Văn N, sau đó ông N giao cho vợ chồng S sử dụng từ năm 2017. Hiện bà L, ông N, bà Nguyễn Thị Thu T (vợ S) không có yêu cầu nhận lại xe mà giao cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định. Xét thấy bị cáo sử dụng chiếc xe này vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đỏ thu giữ của bị cáo, bị cáo sử dụng chiếc điện thoại này vào việc giao dịch sinh hoạt hằng ngày, không sử dụng vào việc phạm tội nên giao trả lại cho bị cáo điện thoại trên.

- 01 đôi giày vải thu giữ của bị cáo, bị cáo không yêu cầu nhận lại đôi giày trên và xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo cũng như xử lý vật chứng vụ án và chấp nhận đề nghị của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[8] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng và đầy đủ các hành vi, quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Dương Tấn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Dương Tấn S 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/12/2018.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 138/19 có chữ ký của Dương Tấn S và hình dấu Công an xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh; cùng chữ ký của giám định viên Nguyễn Mạnh C và chữ ký CBĐT Dương Mạnh C và 01 (một) đôi giày vải.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) xe môtô biển số 59M1-737.44, có số khung D4D-458 738, số máy: EM9B-458.738.

Giao trả cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đỏ. (tất cả vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/3/2019 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh)

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bà Nguyễn Thị Thu Thảo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HSST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về