Bản án 76/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 76/2019/HS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, tại Nhà văn hóa trung tâm xã Liêm Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm, lưu động vụ án hình sự thụ lý số 73/2019/TLST-HS ngày 30/05/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2019/QĐXXST-HS ngày 13/6/2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn V, sinh năm 1985 tại Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn S, xã Đ, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con bà Phạm Thị K và không xác định được bố đẻ; có vợ là Đinh Thị T, sinh năm 1983 và 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 06/8/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 18/03/2019, tạm giam từ ngày 24/03/2019 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1989; trú tại: Tổ dân phố B, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Anh Lê Văn L, sinh năm 1983; trú tại: Tổ dân phố Đ, phường T, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sau khi đến chơi nhà bạn tại Thị trấn Vĩnh Trụ, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, khoảng 11 giờ ngày 18/03/2019, Phạm Văn V đi xe ôm đến quán nước gần khu vực nút giao Liêm Tuyền thuộc thôn Triệu Xá, xã Liêm Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngồi uống nước. Tại đây V gặp một người đàn ông hành nghề xe ôm khoảng 35 tuổi (V không biết tên tuổi, địa chỉ), trong lúc nói chuyện, V hỏi người đàn ông:“Anh ơi ở đây có hàng không, kiếm cho em một tý” (ý V hỏi nhờ mua hộ ma túy), người đó nói: “Đưa tiền đây tao lấy cho”, nghe bảo vậy V lấy ra 100.000 đồng đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền, bảo V ngồi đợi rồi điều khiển xe môtô (không rõ biển kiểm soát) bỏ đi, một lát sau người đó quay lại, bỏ vào túi áo khoác bên phải của V 01 gói giấy bạc màu trắng và nói: “Hàng đấy nhé”. Biết đó là ma túy nên V không mở ra kiểm tra, sau đó V thuê người đàn ông chở ra Quốc lộ 1A để đón xe khách về Ninh Bình. Người đàn ông chở V đến khu vực tổ dân phố Bảo Lộc 1, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thì V xuống xe, đứng bên đường Quốc lộ 1A đợi đón xe khách. Một lát sau, V bị lực lượng Công an phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đi tuần tra thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra hành chính, phát hiện, thu giữ trong túi áo khoác bên phải của V đang mặc 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. Tại chỗ, V khai nhận đó là ma túy, cất giấu mục đích để sử dụng.

Vật chứng thu giữ của Phạm Văn V là 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01.

Tại bản Kết luận giám định số 50/PC09-MT ngày 21/03/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,150 gam, loại Heroine”.

Bản cáo trạng số 78/CT-VKS-PL ngày 29/05/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Phạm Văn V về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Phạm Văn V, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Phạm Văn V từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 18/03/2019, tại khu vực tổ dân phố Bảo Lộc 1, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Phạm Văn V bị lực lượng Công an phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam bắt giữ quả tang cất giấu trái phép 0,150 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do từng bị kết án về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã được xóa án tích).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ pháp luật quy định.

[5] Về hình phạt:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức án nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo bản thân nghiện ma túy, nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông hành nghề xe ôm Phạm Văn V khai gặp ở quán nước khu vực gần cầu vượt Liêm Tuyền là người đã đi mua và đưa ma túy cho bị cáo cất giấu để sử dụng, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ: Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm tàng trữ và không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn V phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/03/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 50/PC09-MT có chữ ký, dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 03/6/2019.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Phạm Văn V nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 76/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:76/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về