Bản án 78/2018/HS-ST ngày 26/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN78/2018/HS-ST NGÀY 26/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:  64/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo: Huỳnh Văn D; Tên gọi khác: không; Sinh năm: 1987; Nơi sinh: Long An; Nơi đăng ký HKTT: ấp 3, xã Đ, huyện ĐH, tỉnh Long An; Chỗ ở hiện nay: ấp 3, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 04/12; Nghề nghiệp: không có; Họ và tên cha: Huỳnh Văn T, sinh năm: 1956 (sống); Họ và tên mẹ: Trần Thị X, sinh năm: 1959 (sống); Anh, chị, em ruột: có một người anh, một người chị, một người em, lớn sinh năm 1982, nhỏ sinh năm 1991; Vợ: Nguyễn Thị Minh Lan, sinh năm: 1988; Con ruột: có một người con sinh năm 2009; Tiền án: Bản án số 98/2016/HSST ngày 15/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xử phạt Huỳnh Văn D 01 năm 03 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Huỳnh Văn D chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/4/2017; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 01/3/2006 Huỳnh Văn D bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Huỳnh Văn D chấp hành xong bản án vào ngày 22 tháng 11 năm 2006; Ngày 26/5/2010 Huỳnh Văn D bị Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Huỳnh Văn D chấp hành xong bản án vào ngày 21 tháng 8 năm 2012. Vào ngày 04/10/2012 Huỳnh Văn D bị Ủy ban nhân dân tỉnh Long An áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục tại cơ sở giáo dục Phú Hòa, thời hạn 24 tháng, về hành vi gây rối trật tự công cộng, D chấp hành xong quyết định vào ngày 30/8/2014); Bị cáo bị bắt tạm giữ khẩn cấp từ ngày 26 tháng 4 năm 2018 đến ngày 05 tháng 5 năm 2018 chuyển tạm giam cho đến nay (có mặt tại phiên Tòa).

- Bị hại: Huỳnh Hoàng D, sinh năm 1977 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 2, xã V, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Tiền Tú L, sinh năm 1979 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp 2, xã Vị Tân, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1978 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Mới 2, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa tỉnh Long An.

Người làm chứng: Huỳnh Trường G, Nguyễn Văn Q, Trần Thị P, Huỳnh Văn T (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 25 tháng 4 năm 2018, Huỳnh Văn D điều khiển xe mô tô biển số 52M3- 3956 chở phía sau là con ruột của D tên Huỳnh Trường Giang, sinh năm 2009, đến quán bán nước giải khát của ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1977 thuộc ấp B, xã Đ, huyện ĐH, tỉnh Long An, để uống nước. Lúc này, D nhìn qua nhà ông Huỳnh Hoàng D, sinh năm 1977, cư ngụ tại ấp 1, xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (đối diện quán của ông Q), thấy xe mô tô biển số 62T1- 0102 của ông D1 đang dựng trước cửa nhà không có người trông giữ, chìa khóa gắn sẳn trong ổ khóa công tắc điện của xe nên D nảy sinh ý định trộm cắp xe này bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. D lén lút tiếp cận lấy xe mô tô biển số 62T1- 0102 dẫn ra lộ, nổ máy xe điều khiển qua quán của ông Q chở G đi, còn xe mô tô biển số 52M3- 3956 D để lại quán. D điều khiển xe mô tô biển số 62T1- 0102 đến nhà của ông Đặng Thái Bình, sinh năm 1975, ngụ tại ấp Mới 1, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, tháo bỏ biển số 62T1- 0102, gắn biển số giả 62N1- 210.17 vào xe và sau đó D chở Giang về nhà D cất giấu xe. Qua tố cáo của ông Dũ, lực lượng công an xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, đã truy tìm và thu hồi được xe mô tô D trộm cắp của ông Dũ để điều tra xử lý. Ngoài ra, lực lượng công an còn thu giữ của Huỳnh Văn D các tài sản sau: 01 xe mô tô biển số 52M3- 3956, số khung: WEHBUM5H102, số máy:RPTDS152FMM00102658;  Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu bạc, không có sim; Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen xám, không nhớ số sim; Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, không có sim; Một đoạn sắt màu đen dài 08cm; Một chứng minh nhân dân họ tên Huỳnh Văn D; Một bóp da màu đen nâu bên trong có: một nhẫn vàng bên trong nhẫn có ký hiệu chữ Kim Ánh, Đức Hòa 9999-2.0, 03 tờ giấy tiền loại 2 USD, 04 tờ giấy tiền loại 5.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 20.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 50.000 đồng. Quá trình làm việc với

Cơ quan điều tra, Huỳnh Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Quá trình điều tra xác định: Xe mô tô biển số 62T1- 0102 có số máy: F18E- 5070373, số khung: 8007Y-570296, xe do ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1978, hộ khẩu thường trú: ấp Mới 1, xã Mỹ Hạnh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, đứng tên đăng ký chủ quyền vào năm 2008. Sau đó, ông Bình bán lại xe này cho ông Huỳnh Hoàng D với giá 22.000.000 đồng, quá trình mua bán không làm giấy tờ xác nhận, ông Dũ sử dụng xe mô tô biển số 62T1- 0102 đến ngày 25 tháng 4 năm 2018 thì bị Huỳnh Văn D trộm cắp chiếm đoạt. Đối với biển số xe 62T1- 0102, D tháo bỏ tại nhà ông Đặng Thái Bình, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không tìm được. Xe mô tô biển số 52M3 - 3956, số khung: WEHBUM5H102, số máy: RPTDS152FMM00102658, thu giữ của Huỳnh Văn D, do D mua của người không rỏ họ tên, địa chỉ để sử dụng, xe không có người đứng tên đăng ký chủ quyền và D sử dụng xe này làm phương tiện thực hiện tội phạm.

Tại kết luận định giá tài sản số 21/KL.ĐGTS ngày 27 tháng 4 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xác định xe mô tô biển số 62T1- 0102 D trộm cắp của ông Huỳnh Hoàng D có giá trị thành tiền là 18.995.000 đồng.

Tang vật chứng: Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả lại xong cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Huỳnh Hoàng D 01 xe mô tô biển số 62T1- 0102 (đã bị mất biển số), số máy: F18E-5070373, số khung: 8007Y-570296, D trộm cắp nói trên theo biên bản trả tài sản ngày 02 tháng 5 năm 2018. Hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang tạm giữ các vật chứng thu giữ của Huỳnh Văn D gồm có: 01 biển số xe mô tô giả 62N1- 210.17; Một xe mô tô biển số 52M3 - 3956 (biển số giả), số khung: WEHBUM5H102, số máy: RPTDS152FMM00102658; Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu bạc, không có sim; Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen xám, không nhớ số sim; Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, không có số sim; Một đoạn sắt màu đen dài 08cm; Một bản chính chứng minh nhân dân họ tên Huỳnh Văn D; Một bóp da màu đen nâu bên trong có: một nhẫn vàng bên trong nhẫn có ký hiệu chữ Kim Ánh, Đức Hòa, 03 tờ giấy tiền loại 2 USD, 04 tờ giấy tiền loại 5.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 20.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 50.000 đồng.

Trách nhiệm dân sự: Ông Huỳnh Hoàng D sau khi nhận lại xe mô tô biển số 62T1- 0102(đã bị mất biển số), số máy: F18E-5070373, số khung: 8007Y-570296, bị mất trộm không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm xã hội của hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo Huỳnh Văn D gây ra; đồng thời căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51, điểm h khoản 1, Điều 52 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đề nghị hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Huỳnh Văn D mức hình phạt từ 15 tháng 18 tháng tù.

Đồng thời đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Về tang vật chứng: Tịch thu sung công quỹ nhà nước một xe mô tô số khung: WEHBUM5H102, số máy: RPTDS152FMM00102658. Trả lại cho bị cáo các tài sản không liên quan đến vụ án: Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu bạc, không có sim; Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen xám, không nhớ số sim; Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, không có số sim; Một bản chính chứng minh nhân dân họ tên Huỳnh Văn D; Một bóp da màu đen nâu bên trong có: một nhẫn vàng bên trong nhẫn có ký hiệu chữ Kim Ánh, Đức Hòa 9999-2.0, 03 tờ giấy tiền loại 2 USD, 04 tờ giấy tiền loại 5.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 20.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 50.000 đồng. Tịch thu tiêu hủy: 02 biển số xe mô tô giả 62N1- 210.17 và biển số 52M3- 3956 (biển số giả), một đoạn sắt màu đen dài 08cm không có giá trị sử dụng.

- Về trách nhiệm dân sự: Ông Huỳnh Hoàng D đã nhận lại tài sản bị mất trộm xong và không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Văn D hoàn toàn nhìn nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố, không đưa ra chứng cứ nào minh oan chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại ông Huỳnh Hoàng D trình bày tại Cơ quan điều tra: Ngày 05/5/2018, vợ của anh Dũ là chị Loan dựng xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại AIRBLACK, biển số 62T1- 0102, số máy: F18E-5070373, số khung: 8007Y-570296 trước cửa nhà thì bị trộm. Nay anh Dũ đã nhận lại tài sản bị mất trộm xong nên không có yêu cầu gì khác trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại và người làm chứng nhưng những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

 [2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Huỳnh Văn D trước Tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường vào lúc 16 giờ 15 phút ngày 26 tháng 4 năm 2018, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng với bản kết luận về định giá tài sản số 21/KL.ĐGTS ngày 21/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân huyện Đức Hòa và phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Thấy rằng, bị cáo Huỳnh Văn D do lười lao động, muốn kiếm tiền tiêu xài cá nhân mà không phải bỏ công sức lao động nên vào ngày 26/4/2018, khi nhìn thấy anh Huỳnh Hoàng D, dựng xe mô tô trước cửa nhà có sẵn chìa khóa trên ổ khóa công tắc xe nên D có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là xe mô tô mô tô nhãn hiệu Hon Da, biển số: 62T1- 0102, có giá trị 18.995.000đồng.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Huỳnh Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Huỳnh Văn D với tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [3]. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản mà bị cáo D gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, quyền này được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm hại trực tiếp đến tài sản đang thuộc sở hữu của ông Huỳnh Hoàng D, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của bị cáo gây ra là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi trái pháp luật của bị cáo cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự, do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

 [4]. Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Ngày 15/9/2016 Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xử phạt Huỳnh Văn D 01 năm 03 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Huỳnh Văn D chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/4/2017, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý, do đó theo khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm; đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Về nhân thân: bị cáo đã từng bị kết án 2 lần về tội trộm cắp tài sản đã được xóa án tích, một lần bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục tại cơ sở giáo dục Phú Hòa, thời hạn 24 tháng, về hành vi gây rối trật tự công cộng. Sau khi chấp hành án và biện pháp xử lý hành chính xong bị cáo không chịu rèn luyện thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục phạm tội, nêm cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe và phong ngừa chung. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã trả lại cho người bị hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên khi áp dụng hình phạt cho bị cáo có xem xét giảm nhẹ một phần.

Từ phân tích [3] và [4], xét theo lời đề nghị của Kiểm sát viên về áp dụng hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Văn D là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về tang vật chứng: Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả lại xong cho chủ sở hữu hợp pháp là ông Huỳnh Hoàng D 01 xe mô tô biển số 62T1- 0102 (đã bị mất biển số), số máy: F18E-5070373, số khung: 8007Y-570296, D trộm cắp nói trên theo biên bản trả tài sản ngày 02 tháng 5 năm 2018, nên không đề cập xem xét.

Các vật chứng thu giữ của Huỳnh Văn D gồm có: Một xe mô tô biển số 52M3- 3956 (biển số giả), số khung: WEHBUM5H102, số máy: RPTDS152FMM00102658; là công cụ phạm tôi cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với các tài sản Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu bạc, không có sim; Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen xám, không nhớ số sim; Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, không có số sim; Một bản chính chứng minh nhân dân họ tên Huỳnh Văn D; Một bóp da màu đen nâu bên trong có: một nhẫn vàng bên trong nhẫn có ký hiệu chữ Kim Ánh, Đức Hòa 9999-2.0, 03 tờ giấy tiền loại 2 USD, 04 tờ giấy tiền loại 5.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 20.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 50.000 đồng. là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

Đối với một đoạn sắt màu đen dài 08cm, 01 biển số xe mô tô giả 62N1-210.17 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

 [6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Huỳnh Hoàng D đã nhận lại tài sản bị trộm là 01 xe mô tô biển số 62T1- 0102 (đã bị mất biển số), số máy: F18E-5070373, số khung: 8007Y-570296 và không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên không đề cập xem xét.

 [7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Văn D 1 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tiếp tục tạm giam bị cáo Huỳnh Văn D 45 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/7/2018) để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc bị cáo Huỳnh Văn D nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu sung công quỹ nhà nước: Một xe mô tô, số khung: WEHBUM5H102, số máy: RPTDS152FMM00102658;

Trả lại cho bị cáo: Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu bạc, không có sim; Một điện thoại di động hiệu Samsung, màu đen xám, không nhớ số sim; Một điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, không có số sim; Một bản chính chứng minh nhân dân họ tên Huỳnh Văn D; Một bóp da màu đen nâu bên trong có: một nhẫn vàng bên trong nhẫn có ký hiệu chữ Kim Ánh, Đức Hòa 9999 – 2.0, 03 tờ giấy tiền loại 2 USD, 04 tờ giấy tiền loại 5.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 20.000 đồng, 01 tờ giấy tiền loại 50.000 đồng.

Tịch thu tiêu hủy: 02 biển số xe mô tô giả 62N1- 210.17 và biển số 52M3- 3956, một đoạn sắt màu đen dài 08cm.

Tang vật trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15 tháng 6 năm 2018.

Án này là sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2018/HS-ST ngày 26/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:78/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về