Bản án 79/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 79/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 64/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2018/HSST-QĐ ngày 06/11/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2018/HSST-QĐ ngày 16/11/2018 đối với bị cáo:

Đồng Duyên H, sinh năm 1991 tại huyện K, Hải Dương.

Nơi cư trú: thôn T, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đồng Duyên M ( đã chết) và bà Vũ Thị N; Tiền án, tiền sự: chưa; Bị tạm giữ từ ngày 19/7/2018 đến ngày 20/7/2018. Hiện đang tại ngoại. Có mặt.

Người bị hại:

Anh Đồng Duyên N, sinh năm 1987. Địa chỉ cư trú tại: thôn T, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1987. Địa chỉ cư trú: thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

2. Anh Đinh Văn T, sinh năm 1999. Địa chỉ cư trú: thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 30/3/218, Đồng Duyên H cùng anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1997, trú tại thôn P, xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương( là bạn của H) ngồi chơi uống nước tại bàn ở sân trước cửa nhà H ở thôn T, xã L, huyện Kim Thành. Lúc này, H thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note8 màu đen của anh Đồng Duyên N, sinh năm 1987( là anh ruột của H) để ở trên âm ly trong phòng khách nhà anh N( ở cùng sân, sát nhà cạnh nhà H) đang mở nhạc kết nối bluetooth không dây với loa ngoài, còn anh N đang ngồi viết sớ cúng tại điện thờ trước cửa nhà, lợi dụng việc anh N không để ý H nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại trên để đem đi cầm cố lấy tiền tiêu sài các nhân. H đi đến lấy chiếc điện thoại của anh N cho vào cạp quần rồi đi ra chỗ anh T rủ anh T đi chơi. H bảo T đưa chì khóa xe cho H rồi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius biển số 34B2-904.02( xe do anh T mượn của anh Nguyễn Văn H là anh ruột của T) chở anh T ra đến cổng thôn T thì dừng lại đổi lái, anh T điều khiển xe chở H đến quán bắn cá ở thị trấn Phú T, huyện K chơi. Trên đường đi, H nói với anh T “Em ơi anh lấy điện thoại của anh trai anh”, lúc này T mới biết H lấy điện thoại của anh N nhưng không nói gì. Sau đó, H hỏi mượn xe của anh T( anh T không biết H đi đâu, làm gì), H đi một mình đến quán điện thoại Q ở thị trấn Phú T thì gặp anh Đinh Văn T, sinh năm 1999, trú tại thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương là nhân viên của quán bảo cầm cố chiếc điện thoại trên, do điện thoại bị khóa nên anh T không nhận. H để chiếc điện thoại bảo anh T bẻ khóa rồi về quán bắn cá chơi. Khoảng 16 giờ cùng ngày, do không bẻ khóa điện thoại được, H quay lại quán Q lấy lại chiếc điện thoại trên.

Sau khi phát hiện chiếc điện thoại bị H lấy trộm, anh N trình báo Công an xã L, huyện K. Hồi 19 giờ 15 phút ngày 30/3/2018, H đến Công an huyện Kim Thành giao nộp chiếc điện thoại trên, khai nhận hành vi phạm tội. Sau đó, cơ quan Công an nhiều lần triệu tập, xác minh nhưng H vắng mặt tại địa phương, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Kim Thành ra Quyết định truy nã số 03 ngày 06/7/2018 đối với H. Đến 9 giờ ngày 19/7/2018 H ra đầu thú tại Công an huyện Kim Thành.

Tại Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐG ngày 19/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự của Ủy ban nhân dân huyện Kim Thành kết luận: Chiếc điện thoại di động nêu trên trị giá 18.334.000đồng.

Tại bản cáo trạng số 55/CT-VKS-HS ngày 04/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Đồng Duyên H về tội “ Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 01 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xác định Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng là đúng và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố tại phiên tòa trình bày luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 01 Điều 173, điểm b, s khoản 01 và khoản 02 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Đồng Duyên H từ 12 đến 15 tháng tù. Ngoài ra, quan điểm của Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết về vật chứng và án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Điều tra Công an huyện Kim Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 30/3/2018, tại nhà anh Đồng Duyên N ở thôn T, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương bị cáo có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note8 màu đen trị giá 18.334.000đồng của anh N mục đích bán để lấy tiền tiêu sài. Hành vi nêu trên của bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[ 3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật, nhưng vì mục đích chiếm đoạt tài sản để về bán lấy tiền tiêu sài cho bản thân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo không những vi phạm pháp luật mà còn gây nên một dư luận xấu trong quần chúng nhân dân trên địa bàn nơi xảy ra tội phạm. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Sau khi phạm tội, bị cáo đã kịp thời khắc phục hậu quả cho người bị hại là anh Đồng Duyên N. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đều khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Mặt khác, người bị hại có đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 01 và khoản 02 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, song dù có chiếu cố đến đâu cũng cần buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người công dân lương thiện có ích cho xã hội.

[ 5] Về hình phạt bổ sung: Tại điều luật còn quy định về hình phạt bổ sung là phạt tiền, song xét thấy không cần thiết phạt bổ sung đối với bị cáo cũng là phù hợp.

[ 6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại trong vụ án không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì, do vậy không đặt ra việc giải quyết.

[7] Về vật chứng: gồm có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note8 là tài sản hợp pháp của anh Đồng Duyên N nên cần phải trả lại cho anh Đồng Duyên N là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết luận có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Đồng Duyên H phạm tội “ trộm cắp tài sản”

2. Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Đồng Duyên H 13( mười ba) tháng tù, được trừ 2 ngày tạm giữ, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án 3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra việc giải quyết.

4. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Đồng Duyên N, địa chỉ: thôn Trung Hạng, xã Liên Hòa, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy Note8( Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/10/2018)

5. Về án phí: Buộc bị cáo Đồng Duyên H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:79/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về