Bản án 80/2019/HS-PT ngày 21/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 80/2019/HS-PT NGÀY 21/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Mở phiên tòa ngày 21/02/2019, tại trụ sở TAND tỉnh Đăk Lăk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2019/TLPT-HS ngày 09/01/2019, đối với bị cáo Nguyễn Đức H, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 108/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 của TAND huyện Ea H’Leo, tỉnh Đăk Lăk.

Bị cáo kháng cáo:

NGUYỄN ĐỨC H, sinh năm 1995, tại tỉnh Nghệ An.

Nơi cư trú: Xóm 1, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Con ông: Nguyễn Đức M, sinh năm 1960 và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1960; Có vợ: Trần Thị Thu T, sinh năm 1998 (là bị cáo trong vụ án), có 01 con sinh năm 2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 17/9/2018, tạm giam ngày 20/9/2018, hiện đang tạm giam, có mặt.

Trong vụ án còn có bị cáo Trần Thị Thu T nhưng không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau sau:

Sáng ngày 15/9/2018, Nguyễn Đức H cùng với vợ là Trần Thị Thu T, đi đến nhà anh Phạm Ngọc T ở xã C, huyện E, để xin việc làm nhưng không được. Khoảng 11 giờ cùng ngày, H và T đi bộ ngang qua nhà hàng TM, thuộc thôn 2, xã C, huyện E, thì thấy chiếc xe mô tô biển số 47D1-145.66 của ông Phạm Văn C dựng trên vỉa hè trước nhà hàng, trên xe có cắm chìa khóa điện và không có người trông coi nên H nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô. H nói với T “lại lấy chiếc xe kia”, thì T trả lời “Anh lại mà lấy”. H nói với T, nếu H lấy trộm xe dễ bị người khác phát hiện hơn là T lấy trộm xe, H sẽ đi về hướng xã W đứng chờ T lấy trộm xe thì T đồng ý. T đến quay đầu xe mô tô và điều khiển xe chạy về hướng xã W khoảng 80m thì gặp H, H điều khiển xe chở T đến nhà ông Trần Văn T là bố của T, ở thôn Đ, xã N, huyện E. Chiều ngày 16/9/2018, H điều khiển chiếc xe mô tô trộm cắp được đi trên đường thì bị công an xã N phát hiện bắt giữ.

Biên bản kết luận định giá tài sản số 69/BB-ĐGTS ngày 19/9/2018 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ea H’Leo kết luận: Xe mô tô biển số 47D1-145.66 có giá trị 8.500.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm sơ thẩm số: 108/2018/HSST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo đã áp dụng: Khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Đức H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt Trần Thị Thu T 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản, xử lý vật chứng, quyết định án phí và tuyên quyền kháng cáo.

Ngày 27/11/2018, bị cáo Nguyễn Đức H có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Đức H khai nhận: Khoảng 11 giờ, ngày 15/9/2018, bị cáo cùng với vợ là Trần Thị Thu T đi bộ ngang qua nhà hàng Tuyết Mai, thuộc thôn 2, xã C, huyện E, thì thấy chiếc xe mô tô biển số 47D1-145.66 đang dựng trên vỉa hè trước nhà hàng, trên xe còn cắm chìa khóa điện, nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe; Bị cáo nói với T đến lấy trộm xe chạy ra ngoài. Sau đó, bị cáo điều khiển xe chạy về nhà bố vợ của bị cáo ở thôn Đ, xã N, huyện E.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Lăk cho rằng: Bản án sơ thẩm tuyên xử bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là thỏa đáng và đã xem xét đầy đủ đến các tình tiết giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của bị cáo Nguyễn Đức H tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của Trần Thị Thu T là người cùng thực hiện hành vi phạm tội với bị cáo, phù hợp với vật chứng được thu giữ và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[2] Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Do động cơ vụ lợi, trưa ngày 15/9/2018, Nguyễn Đức H và Trần Thị Thu T, đã lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển số 47D1-145.66, có giá trị 8.500.000 đồng của ông Phạm Văn C đang để trên vỉa hè, trước nhà hàng Tuyết Mai thuộc thôn 2, xã C, huyện E.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử Nguyễn Đức H và Trần Thị Thu T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét mức hình phạt 09 tháng tù, mà Tòa án cấp sơ thẩm xử Nguyễn Đức H là thỏa đáng và đã xem xét đầy đủ đến các tình tiết giảm nhẹ, cũng như nhân thân của bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, cần giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm ở địa phương.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức H và giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ 17/9/2018.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HS-PT ngày 21/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:80/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về