Bản án 80/2019/HS-ST ngày 26/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 80/2019/HS-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 7 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 66/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vũ Văn C, tên gọi khác: không có; sinh ngày 01/10/1963, tại Thanh Miện, Hải Dương. Nơi cư trú: Tổ 2 A, khu 1, phường Q, thành phố U, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T (đã chết) và bà Trần Thị V (đã chết); vợ: Vũ Thị Đ, sinh năm 1969 và có 02 con, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 10/6/2011 bị TAND tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đã chấp hành xong hình phạt; bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 21/3/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Văn P, tên gọi khác: không có; sinh ngày 16/6/1963, tại Quảng Yên, Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ 3, khu Tân Lập 1, phường P, thành phố U, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 08/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh B và bà Nguyễn Thị C; vợ: Lưu Thị V, sinh năm 1971 (đã ly hôn) và có 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 1989 bị TAND thị xã Uông Bí (Nay là thành phố Uông Bí) tỉnh Quảng Ninh xử phạt 39 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, đã chấp hành xong hình phạt; bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/3/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: 1. Anh Vũ Trọng H, sinh năm: 1978.

Địa chỉ: Tổ 6, khu Liên Phương, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm: 1962.

Địa chỉ: Tổ 3, khu Bí Trung 1, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 20/3/2019, Vũ Văn C mua của một người thanh niên không quen biết một túi ma túy “đá” với giá 1.000.000 đồng tại khu vực cầu sông Uông, thành phố Uông Bí, C mang về nhà và chia thành 08 túi nhỏ, mục đích để sử dụng dần. Đến khoảng 13 giờ ngày 21/3/2019, có người phụ nữ tên T là bạn của C gọi điện xin 02 túi ma túy và bảo C mang đến phòng 203 nhà Nghỉ H. Đ, C đồng ý đồng thời gọi điện cho Lê Văn P là bạn của C làm nghề xe ôm bảo P chở C đến nhà nghỉ H. Đ, thuộc tổ 3, khu B, phường P, thành phố U. Khi đến gần cửa nhà nghỉ, C lấy trong người ra 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba, bên trong có chứa 02 gói ma túy (kí hiệu M1, M2) và cho vào túi áo ngực của P và bảo P mang ma túy cho T ở phòng 203. Khi P đi vào nhà nghỉ thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Cơ quan Công an đã tiến hành kiểm tra phòng nghỉ 203 nhà nghỉ H. Đ, nhưng xác định không có ai tên T đăng ký nghỉ tại phòng 203.

Cùng ngày, Cơ quan Công an tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Văn C tại tổ 2, khu 1, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, thu giữ: Tại vị trí bên trong túi quần bên phải treo phía sau cánh cửa trong nhà vệ sinh tầng 1 có 01 gói giấy vệ sinh màu trắng, bên trong có 05 gói giấy dạng giấy vở học sinh, bên trong mỗi gói đều chứa 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng (2x2)cm, bên trong mỗi túi đều chứa chất tinh thể màu trắng (kí hiệu M5 đến M9); tại túi quần màu đen treo phía sau cánh cửa phòng ngủ tầng 1 có 01 gói giấy màu trắng, loại giấy vở học sinh, bên trong chứa 01 túi nilon màu trắng kích thước (2x2)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (kí hiệu M3); tại ngăn tủ bên trái trong phòng ngủ tầng 1 có 01 hộp nhựa hình chữ nhật màu đen, bên trong có một cân tiểu ly điện tử, màu trắng đen; 01 đoạn ống thủy tinh dài khoảng 15cm, một đầu thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, bầu tròn có dính chất keo màu nâu (kí hiệu M4); 01 đoạn ống thủy tinh dài dài khoảng 15cm, một đầu thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn, không dính gì.

Tại bản Kết luận giám định số: 288 ngày 26/3/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật kí hiệu từ M1 đến M9 gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine có khối lượng: M1, M2 có tổng khối lượng 0,269 gam; M3 0,153 gam; M4 dạng vết không xác định được khối lượng; M5 đến M9 có tổng khối lượng 0,781 gam. Tổng khối lượng số ma túy trên là 1,203 gam (một phảy hai không ba gam).

Tại cáo trạng số: 78/CT-VKSUB ngày 03/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Cả hai bị cáo đều khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đúng như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo theo bản Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự (khoản 2 Điều 51 BLHS đối với bị cáo P); xử phạt bị cáo Vũ Văn C từ 21 đến 24 tháng tù; bị cáo Lê Văn P từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày các bị cáo bị bắt 21/3/2019.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo C mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời, Bị cáo P đưa ma túy hộ C cũng không nhằm mục đích được trả công, nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với cả hai bị cáo.

+ Đối với đối tượng bán ma túy cho C, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, nhân thân, nên không đề cập xử lý.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 288/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn, bên trong có 01 đoạn ống thủy tinh một đầu uốn cong có bầu tròn và 0,8 gam ma túy hoàn lại sau giám định; 01 hộp hộp nhựa hình chữ nhật màu đen, bên trong có 01 cân điện tử màu trắng 01 đoạn ống thủy tinh dài khoảng 15cm; 01vỏ bao thuốc lá Vinataba thu giữ của Vũ Văn C.

Trả lại cho bị cáo Vũ Văn C 01 điện thoại di động Samsung, màu đen cùng sim số 0349.851.877 và số tiền 800.000đ, nhưng tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án. Trả lại Bị cáo Vũ Văn P 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS 14K7-0052 cùng giấy đăng ký xe mang tên Vũ Thị Hồng N, 01 điện thoại di động hiệu Mastel màu xanh và số tiền 50.000 đồng, nhưng tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của những người chứng kiến, với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí lập hồi 14 giờ 20 phút, ngày 21/3/2019 đối với bị cáo Lê Văn P và biên bản khám xét, biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày 21/3/2019 đối với bị cáo Vũ Văn C, phù hợp với vật chứng thu giữ của các bị cáo, với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 20 phút, ngày 21/3/2019, tại nhà nghỉ H. Đ, thuộc tổ 3, khu B, phường P, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí phát hiện, bắt quả tang Lê Văn P là người có đủ năng lực, trách nhiệm hình sự có hành vi tàng trữ trái phép 0,269 gam ma túy, loại Methamphetamine, số ma túy trên do C nhờ P mang đến cho bạn C tại nhà nghỉ H. Đ, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí khám xét nơi ở của Vũ Văn C tại tổ 2 A, khu 1, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, phát hiện Vũ Văn C có hành vi tàng trữ 0,934 gam ma túy, loại Methamphetamine. Tổng số ma túy C tàng trữ là 1,203 gam với mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt giữ, thu giữ vật chứng. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Hành vi của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm lây lan căn bệnh HIV/AIDS, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác trong cộng đồng, làm ảnh hưởng đến kinh tế của bản thân và gia đình, gây mất trật tự trị an xã hội. Cả hai bị cáo đều là người đã lớn tuổi, nhận thức đầy đủ hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng với ý thức coi thường pháp luật, không vượt qua được sự cám dỗ của ma túy, các bị cáo đã cố ý phạm tội.

*Về tình tiết tăng nặng: không có.

* Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo P có Bố đẻ là người có công với cách mạng, nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 BLHS.

* Về vai trò và nhân thân của các bị cáo: Vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể. Tuy nhiên C là Người Tàng trữ tổng số 1,203 gam ma túy, sau đó nhờ P mang 0,269 gam ma túy vào nhà nghỉ cho bạn của C, nên C giữ vai trò chính. P là người giúp sức đưa ma túy hộ C và không nhằm mục đích hưởng lợi, nên P giữ vai trò sau trong vụ án. Cả hai bị cáo đều là những người có nhân thân xấu, bị cáo C đã bị Tòa án nhân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, bị cáo cáo P bị Tòa án nhân dân thị xã Uông Bí (Nay là thành phố Uông Bí), xử phạt 39 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân”, nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội do cố ý, nên cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo, bắt các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, mua ma túy để sử dụng không nhằm mục đích bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Các tình tiết khác của vụ án: Đối với đối tượng bán ma túy cho Vũ Văn C, Cơ quan điều tra không xác định được địa chỉ, lý lịch, nên không đề cập.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong số 288/GĐMT bên trong có chứa 01 đoạn ống thủy tinh, một đầu uốn cong có bầu tròn và 0,8 gam ma túy Methamphetamine, hoàn lại sau giám định; 01 hộp nhựa màu đen, bên trong có 01 cân tiểu ly điện tử màu trắng đen; 01 ống thủy tinh dài khoảng 15 cm, một đầu thẳng, một đầu uốn cong có bầu tròn; 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba là những vật Nhà nước cấm tàng trữ và không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại Samsung màu đen gắn sim số 0349.851.877 và số tiền 800.000 đồng thu của bị cáo C; 01 xe mô tô Yamaha BKS 14K7-0052 cùng giấy đăng ký xe mang tên Vũ Thị Hồng N, 01 điện thoại di động hiệu Mastel, màu xanh và số tiền 50.000 đồng thu giữ của bị cáo P là vật, tiền các bị cáo không dùng vào việc phạm tội nên trả lại cho các bị cáo, nhưng tạm giữ số tiền trên của cả hai bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Đối với Chứng minh nhân dân mang tên Lê Văn P và Chứng minh nhân dân mang tên Vũ Văn C, Cơ quan điều tra đã trả lại cho các bị cáo, nên không đề cập.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố:  Các bị cáo Vũ Văn C Lê Văn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

 Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Văn C 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 21/3/2019.

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lê Văn P 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 21/3/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 288/GĐMT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Vinataba; 01 hộp nhựa màu đen, bên trong có 01 cân điện tử, 01 đoạn ống thủy tinh. Trả lại cho bị cáo Vũ Văn C 01 điện thoại Samsung màu đen gắn sim số 0349.851.877 và số tiền 800.000 đồng; trả lại bị cáo Lê Văn P 01 xe mô tô Yamaha BKS 14K7-0052 cùng giấy đăng ký xe mang tên Vũ Thị Hồng N, 01 điện thoại di động hiệu Mastel, màu xanh và số tiền 50.000 đồng, nhưng tạm giữ số tiền trên của hai bị cáo để đảm bảo thi hành án.

(Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22 tháng 7 năm 2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Vũ Văn C và Lê Văn P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, nộp Ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HS-ST ngày 26/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về