Bản án 81/2018/HSST ngày 05/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 81/2018/HSST NGÀY 05/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 4 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2018/HSST ngày 02/03/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Văn H, sinh năm 1990 tại tỉnh B; thường trú: Số 1075/8A, khu phố T, phường H, thị xã D, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 0/12; con ông Bùi Văn T, sinh năm 1968 và bà Huỳnh Thị P, sinh năm 1972; bị cáo có 03 anh chị em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2000; tiền án: không; tiền sự: Ngày 07/10/2017, bị Uỷ ban nhân dân phường H, thị xã D, tỉnh B quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng, lý do sử dụng trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2017 đến ngày 12/02/2018 được tại ngoại. Bị cáo hiện đang bị tạm giam trong vụ án khác. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Trần Thanh B, sinh năm 1996; thường trú: Số 01/7A, khu phố C, phường H, thị xã D, tỉnh B. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Hồng Nhật L, sinh ngày: 07/01/2002; thường trú: Số 1136/15B, khu phố T, phường H, thĩ xã D, tỉnh B.

Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Hồng Nhật L: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1976; thường trú: Số 1136/15B, khu phố T, phường H, thĩ xã D, tỉnh B. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1984; thường trú: Ấp   Th, xã Tân A, huyện M, tỉnh L; chỗ ở: Tổ 01, khu phố C, phường H, thị xã D, tỉnh B.Vắng mặt.

3. Anh Lương Quốc H, sinh năm: 1980; thường trú: Thôn 10, xã L, huyện R, tỉnh P.Vắng mặt.

Người làm chứng: Anh Lê Minh T, sinh năm 1991; thường trú: Ấp 13, xã Đ A, thị xã  R, tỉnh  L. Chỗ ở: Tổ 07, khu phố A, phường H, thị xã D, tỉnh B.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Văn H, Nguyễn Hồng Nhật Lsinh ngày 07/01/20002 là những đối tượng không có nghề nghiệp và thường hay chơi game. Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17/12/2017, H rủ L cùng đi tìm tài sản lấy trộm đem bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. H điều khiển xe mô tô màu xanh đen (không có biển số) chở L mang theo 01 thanh sắt dài khoảng 40cm có móc ở đầu chạy đến đường Mạch Thị L thuộc tổ 8, khu phố C, phường H, thị xã D, tỉnh B thì nhìn thấy 01 xe ô tô tải hiệu Huyndai màu trắng, biển số 93C-063.82 đang đậu ở bãi đất trống không có người trông coi. Lúc này, H dừng xe lại cùng L đi bộ vào trong dùng 01 thanh sắt dài khoảng 40cm có móc ở đầu bẻ gãy thanh sắt bảo vệ phía ngoài bình ắc quy và cạy đứt dây nối bình ắc quy rồi khiêng 02 bình ắc quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah), màu trắng bỏ xuống đất. Cả hai khiêng 01 bình ắc quy bỏ lên xe mô tô để H chở về nhà cất giấu, L ở lại giấu 01 bình ắc quy còn lại vào bụi cỏ gần xe ô tô tải để chờ H quay lại đón. H điều khiển xe mô tô chạy trên đường thì lực lượng Công an phường H tuần tra, thấy nghi vấn nên đuổi theo nhưng không đuổi kịp, sau đó lực lượng Công an phường H quay lại tuần tra, phát hiện L cùng 01 bình ắc quy đã bị cắt dây nối nên đưa về phường làm việc. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, H bán 01 bình ắc quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah), màu trắng cho Nguyễn Văn K với giá 700.000 đồng, số tiền này H đã tiêu xài hết. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, qua truy xét Công an phường H đã mời H về phường làm việc, H đã đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội trên.

Vật chứng thu giữ: 02 bình ắc quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah), màu trắng; 01 xe mô tô màu xanh đen (không có biển số), số khung: RLGMB11EDSD000865, số máy VMVA1E-000865.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 362/BB.ĐG ngày 22/12/2017 của Hội đồng định giá thị xã D kết luận: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 02 bình ắc quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah), màu trắng có trị giá 5.400.000 đồng.

Ngày 25/12/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định khởi tố bị can để điều tra đối với Bùi Văn H về tội Trộm cắp tài sản.

Đối với Nguyễn Hồng Nhật L đã có hành vi Trộm cắp tài sản, theo giấy khai sinh L chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng giấy khai sinh quá hạn, hiện L đã bỏ trốn nên chưa giám định độ tuổi được, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đang tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Văn K đã mua của Bùi Văn H 01 bình ắc quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah) màu trắng với giá 700.000 đồng nhưng không biết tài sản này là do H chiếm đoạt của người khác mà có và anh K cũng không yêu cầu H phải bồi thường 700.000 đồng nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thĩ xã D không đề cập xử lý.

Đối với 02 bình ắc quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah), màu trắng đã thu hồi trả lại cho anh Trần Thanh B, anh B không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Đối với 01 thanh sắt dài khoảng 40cm (còn gọi là cây càng cua) do Bùi Văn H sử dụng vào việc phạm tội, hiện không thu hồi được nên không đề cập xử lý.

Đối với 01 xe mô tô màu xanh đen (không có biển số), số khung: RLGMB11EDSD000865, số máy: VMVA1E-000865 do Bùi Văn H sử dụng làm phương tiện phạm tội, hiện Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D đã đăng báo để tìm chủ sở hữu hợp pháp nhưng không có kết quả, do đó đề nghị Tòa án tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước tang vật trên.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trần Thanh B đã nhận lại 02 bình ắc quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah) màu trắng và không có ý kiến gì.

Tại cáo trạng số 76/CT-VKS ngày 02 tháng 03 năm 2018, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B truy tố Bùi Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; khoản 3 Điều 7; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, xử phạt bị cáo Bùi Văn H với mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn H xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã D, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người bị hại và những người làm chứng cũng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17/12/2017, H rủ Lđi tìm tài sản lấy trộm chia nhau tiêu xài. H điều khiển xe mô tô màu xanh đen (không có biển số) chở L mang theo 01 thanh sắt dài khoảng 40cm có móc ở đầu chạy đến đường Mạch Thị L thuộc tổ 8, khu phố C, phường H, thị xã D, tỉnh B thì nhìn thấy 01 xe ô tô tải hiệu Huyndai màu trắng, biển số 93C-063.82 đang đậu ở bãi đất trống không có người trông coi. Lúc này, H dừng xe lại cùng L đi bộ vào trong dùng 01 thanh sắt dài khoảng 40cm có móc ở đầu bẻ gãy thanh sắt bảo vệ phía ngoài bình ắc quy và cạy đứt dây nối bình ắc quy rồi khiêng 02 bình ắc quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah), màu trắng bỏ xuống đất. Cả hai khiêng 01 bình ắc quy bỏ lên xe mô tô để H chở về nhà cất giấu, L ở lại giấu 01 bình ắc quy còn lại vào bụi cỏ gần xe ô tô tải để chờ H quay lại đón. Hoàng điều khiển xe mô tô chạy trên đường thì lực lượng Công an phường H tuần tra, thấy nghi vấn nên đuổi theo nhưng không đuổi kịp, sau đó lực lượng Công an phường H quay lại tuần tra, phát hiện L cùng 01 bình ắc quy đã bị cắt dây nối nên đưa về phường làm việc. Đến khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, H bán 01 bình ác quy hiệu Đồng Nai N150 (12V-150Ah), màu trắng cho anh Nguyễn Văn K với giá 700.000 đồng, số tiền này H đã tiêu xài hết. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, qua truy xét Công an phường H đã mời H về phường làm việc, H đã đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội trên.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự thì: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Như vậy, hành vi của bị cáo chiếm đoạt tài sản của người bị hại có trị giá 5.400.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 76/CT - VKS ngày 02 tháng 3 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã D và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có hành vi xúi giục Nguyễn Hồng Nhật L là người dưới 18 tuổi phạm tội, là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hội đồng xét xử sẽ xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân xấu, không có nghề nghiệp, có 01 tiền sự: Ngày 07/10/2017 bị ủy ban nhân dân phường  H, thị xã D, tỉnh B quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thị trấn theo quyết định số 636/QĐ-UBND, thời hạn 03 tháng tính từ ngày ủy ban nhân dân phường H ban hành quyết định nhưng khi trở về địa phương bị cáo không tu dưỡng bản thân trở thành người lương thiện mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện ý thức xem thường pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại. Người  bị hại không còn yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Mức hình phạt do đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo H là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38; khoản 3 Điều 7; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Bùi văn H 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2017 đến ngày 12/02/2018.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước  01 xe mô tô màu xanh đen (không biển số), không có kính chiếu hậu bên phải, số khung: RLGMB11EDSD000865, số máy: VMVA1E-000865 do Bùi Văn H sử dụng làm phương tiện phạm tội. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/3/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D với Chi cục thi hành án Dân sự thị xã D).

2. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự ; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Bùi văn H phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyên khang cao trong han 15 (mười lăm) ngày, kê từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2018/HSST ngày 05/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:81/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về