Bản án 81/2018/HS-ST ngày 09/10/2018 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 81/2018/HS-ST NGÀY 09/10/2018 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 09 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 74/2018/HSST ngày 31 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2018/QĐXXST-HS, ngày 24/8/2018 đối với bị cáo:

Vàng A P (tên gọi khác: Và A P), sinh năm: 1967, tại huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở trước ngày bị bắt: Bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vàng Súa D, sinh năm: 1929 và bà: Vừ Thị D (đã chết); có vợ: Giàng Thị T (là bị hại trong vụ án, đã chết ngày 17/5/2015); bị cáo còn chung sống như vợ chồng với Sùng Thị L, sinh năm: 1982; có 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1994, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 05/01/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên, được trích xuất áp giải đến phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Đình K, Luật sư, Văn phòng Luật sư T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Điện Biên (có mặt).

- Bị hại: Bà Giàng Thị T, sinh năm: 1967 (đã chết). Trước khi chết, bị hại trú tại: Bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Vàng A S, sinh năm: 1994, là con đẻ của bị hại, trú tại: Bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên, vắng mắt tại phiên tòa do đi làm xa và đã cử người em trai ruột là Vàng A L, sinh năm: 1998, trú tại: Bản H, xã M, huyện Đ tham gia phiên tòa. Ông Vàng A L có mặt.

- Những người làm chứng:

1. Ông Vừ A P, sinh năm: 1995; trú tại: Bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (có mặt).

2. Ông Vàng Ghia N, sinh năm: 1964; trú tại: Bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (có mặt).

3. Ông Lầu Sái C, sinh năm: 1963; trú tại: Bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (vắng mặt).

- Người phiên dịch tiếng Mông: Bà Ly Thị C, sinh năm: 1990; trú tại: Tổ 06, phường H, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 1990, Vàng A P kết hôn với Giàng Thị T và trú tại bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Năm 2014, P đưa Sùng Thị L, sinh năm: 1982, về chung sống như vợ chồng và dựng nhà nhỏ cho L ở cách nhà to của vợ chồng P, T khoảng 10 mét. Khoảng 16 giờ ngày 17/5/2015, P sang nhà nhỏ của L đang ở thấy hết gạo, P về nhà to của vợ chồng P lấy một bao thóc, có con Vàng A D chứng kiến. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi P đi xát thóc về thì T yêu cầu P đưa chìa khóa nhà to cho T quản lý, P không đồng ý và nói khi nào P lấy tài sản trong nhà to, P sẽ gọi người đến chứng kiến, rồi P đi tắm trước cửa nhà nhỏ. T đứng ở sân gần chỗ P tắm, hai người cãi nhau. Trong lúc cãi nhau, T bảo P ly hôn với T, T sẽ không chia cho P tài sản gì, nếu P tự ý vào nhà lấy sẽ báo Công an bắt P đi tù. Nghe T nói như vậy, P nghĩ trước đây T bị bệnh, P đã bán tài sản lấy tiền chữa, trị bệnh cho T, khi P bị bệnh, T không đồng ý bán tài sản lấy tiền chữa trị bệnh cho P mà còn bắt P ly hôn và không chia tài sản gì cho P nên P đã tức giận, nảy sinh ý định giết chết T. P thôi không tắm nữa, đi vào trong nhà nhỏ lấy một con dao quắm loại dao phát nương có chiều dài 90,5cm, cán gỗ dài 56cm, đường kính 3,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 34,5cm, sống dao dày 0,5cm, lưỡi sắc bản rộng nhất 5,8cm, mũi dao dài 10cm xông ra mục đích để chém chết T. Thấy P cầm dao, T bỏ chạy, P cầm dao đuổi theo T một đoạn thì đuổi kịp, P vung dao lên chém một phát từ vùng thái dương phải xuống đến xương cột sống cổ, đứt hoàn toàn xương cột sống cổ C7, đứt hoàn toàn bó mạch và thần kinh vùng cổ phải có kích thước (17x2)cm, chỗ sâu nhất là 12cm; chém một phát từ bả vai phải đến 1/3 trên mặt sau cánh tay trái có kích thước (41x5,5)cm làm đứt hoàn toàn xương cột sống ngực D1 và D2, đứt xương bả vai phải, lộ rõ khoang ngực và tim phổi, các vết thương đều có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái, từ sau về trước; một phát từ bả vai trái dọc xuống theo đường nách giữa bên trái, đứt hoàn toàn xương bả vai trái, đứt hoàn toàn cung sau các xương sườn từ 1 đến 5 bên trái, lộ rõ khoang ngực tim, phổi có kích thước (22x6,5)cm, vết thương có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, từ sau về trước; một phát ở 1/3 trên mặt sau cẳng tay trái, kích thước (7x2,5)cm, sâu 2cm, đứt xương trụ trái vết thương có chiều hướng từ dưới lên trên, từ phải sang trái, từ sau về trước; một phát ở 1/3 mặt ngoài đùi trái kích thước (3,5x2,5) cm, vết thương có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, từ trước về sau; một phát ở mặt trong khớp gối trái, kích thước (7x2) cm, sâu 1,5cm, vỡ khớp gối, vết thương có chiều từ trên xuống dưới, từ phải sang trái, từ trước về sau. T gục ngã xuống đất và chết tại chỗ. Lúc này, Vừ A P, là người hàng xóm, chạy đến giằng lấy con dao từ tay P, P chạy về nhà nhỏ lấy bộ quần áo rồi trốn vào rừng, sau đó bỏ trốn sang nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, đến ngày 05/01/2018 thì bị bắt theo Quyết định truy nã.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Vàng A P (tên khác: Và A P) đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Ngày 17/5/2015, Cơ quan điều tra - Công an huyện Điện Biên đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, khám nghiệm tử thi; thu giữ tại hiện trường vụ án 01 con dao quắm dài 90,5cm, cán bằng gỗ dài 56cm, phần lưỡi dao dài 34,5cm, lưỡi sắc bản rộng nhất 5,8cm. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định Trưng cầu giám định số: 134, ngày 17/5/2015 trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Điện Biên giám định: Tử thi.

Ngày 18/5/2015, Cơ quan điều tra - Công an huyện Điện Biên đã ra Quyết định số: 135, ngày 18/5/2015, trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Điện Biên giám định: Hung khí.

Tại bản Kết luận giám định số: 68/TT ngày 18/5/2015 của Trung tâm Pháp y tỉnh Điện Biên đã kết luận:

 “Nguyên nhân chết của Giàng Thị T là: Đa vết thương, mất máu cấp do tác động ngoại lực của vật sắc.”

Tại bản Kết luận giám định số: 61/GĐ-PY ngày 20/5/2015 của Trung tâm Pháp y tỉnh Điện Biên kết luận:

 “Con dao gửi giám định phù hợp với thương tích để lại trên thân thể Giàng Thị T và phù hợp với cơ chế hình thành dấu vết thương tích do vật sắc như đã mô tả tại bản Kết luận giám định pháp y về tử thi số 68/TT, ngày 18 tháng 5 năm 2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Điện Biên.”

Tại bản Cáo trạng số: 09/QĐ-VKS-P2 ngày 30/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Vàng A P (tên khác: Và A P) về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng và quyết định truy tố bị cáo Vàng A P về tội “Giết người” và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ Luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo xử phạt bị cáo tù “Chung thân”. Về trách nhiệm dân sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại do tính mạng của bị hại bị xâm hại, đề nghị HĐXX xem xét, chấp nhận. Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng quy định tại Điều 47/BLHS và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) tịch thu, tiêu hủy con dao; trả lại cho bị cáo chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe đều mang tên Và A P do không liên quan đến vụ án. Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 136  Bộ Luật tố tụng hình sự;  Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo do bị cáo sinh sống tại khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo cho rằng trong quá trình điều tra, khi Cơ quan điều tra tiến hành hỏi cung bị cáo đều có sự tham gia của Luật sư và Kiểm sát viên, bị cáo không bị ép cung mà tự khai nhận hành vi phạm tội như Viện kiểm sát đã truy tố. Luật sư bào chữa cho bị cáo nhất trí như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng và tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tuy nhiên, Luật sư đề nghị HĐXX xem xét áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, những người làm chứng vẫn giữ nguyên nội dung như các biên bản ghi lời khai tại Cơ quan điều tra và trình bày đúng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng của bị hại bị xâm hại, về hình phạt, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay, bị cáo Vàng A P, người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và các hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Thư ký. Do đó, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Viện kiểm sát, của Tòa án và các hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng là đúng quy định của pháp luật.

 [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng hơn 17 giờ 30 phút ngày 17 tháng 5 năm 2015, tại bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Vàng A P (tên khác: Và A P) đã dùng dao phát nương (loại dao quắm) có tổng chiều dài 90,5cm, cán dao bằng gỗ dài 56cm, đường kính 3,5cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 34,5cm, sống dao dày 0,5cm, lưỡi dao sắc bản rộng 5,8cm, mũi dao dài 10cm chém rất mạnh một phát từ vùng thái dương phải xuống đến xương cột sống cổ C7; một phát từ bả vai phải đến 1/3 mặt sau cánh tay trái; một phát từ bả vai trái dọc xuống đường nách giữa bên trái và 1/3 mặt sau cánh tay trái; một phát vào 1/3 mặt ngoài đùi trái; một phát vào mặt trong khớp gối trái của Giàng Thị T gây đa chấn thương, mất máu cấp gây nên cái chết cho Giàng Thị T. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Vàng A P và tiến hành điều tra: Khám nghiệm tử thi, khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng là con dao (loại dao quắm) phát nương; tiến hành khám nghiệm hiện trường phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ tại hiện trường và phù hợp với cơ chế hình thành các vết thương của bị hại.

Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định về tử thi và nguyên nhân chết của Giàng Thị T. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định về hung khí vật gây nên các vết thương thu được tại hiện trường. Các Kết luận giám định phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo Vàng A P khai hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Do đó, Hội đồng xét xử nhận định: Bị cáo Vàng A P (tên khác: Và A P) đã có hành vi phạm tội “Giết người”, có tính chất côn đồ, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bởi vậy, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố để xét xử bị cáo Vàng A P về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Việc đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật, cần chấp nhận.

Đề nghị của Luật sư bào chữa trùng với quan điểm của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ, cần chấp nhận. Tuy nhiên, về mức hình phạt, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn đến 20 năm là không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử không chấp nhận.

 [3] Về tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội được quy định tại khoản 3 Điều 8/BLHS năm 1999, nay là khoản 4 Điều 9/BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Trong vụ án này, do một mình bị cáo thực hiện, bị cáo vừa là chủ mưu vừa là người cố ý thực hiện hành vi phạm tội tích cực và thực hiện hành vi phạm tội đến cùng, chỉ vì bị hại đòi chìa khóa nhà nhiều lần không được và tuyên bố sẽ ly hôn, không chia cho bị cáo tài sản, nếu bị cáo cố tình đến lấy sẽ báo Công an bắt bị cáo đi tù, bị cáo đã ra tay dùng dao quắm dài 90,5cm cả cán chém nhiều nhát vào vùng thái dương, vùng bả vai, mặt đùi, khớp gối của Giàng Thị T dẫn đến tử vong.

Tính mạng, sức khoẻ của con người là bất khả xâm hại được pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam quy định và bảo hộ, quyền sống là một trong những quyền cơ bản, thiêng liêng nhất của con người. Bị cáo hiểu rõ được điều đó, song với bản chất coi thường pháp luật, chỉ vì câu nói trong lúc tức giận của Giàng Thị T mà bị cáo đã ra tay sát hại. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây hoang mang lo lắng, gây sự bất bình và nỗi căm phẫn của quần chúng nhân dân, gây đau thương tang tóc cho gia đình và người thân, con mất mẹ, gia đình mất đi một người thân. Rõ ràng, hành vi phạm tội, hậu quả tội lỗi mà bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, việc áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là cần thiết.

 [4] Xét về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và nhân thân của bị cáo thấy: Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, đến nay, bị cáo đã thực sự ăn năn, hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015. Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng quy định tại Điều52/BLHS năm 2015. Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên, lời sau cùng, bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

 [5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của bị hại là Vàng A L, sinh năm: 1998, là con của bị cáo và bị hại, đề nghị xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật và xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. Về phần dân sự, người đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu bồi thường. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bố, mẹ đẻ của bị hại đều đã chết, nay chỉ còn 03 người con, Vàng A S, Vàng A L là hai người con lớn và là người đại diện hợp pháp cho bị hại đều không yêu cầu bồi thường, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

 [6] Về xử lý vật chứng của vụ án: Con dao (loại dao quắm) là công cụ phạm tội, HĐXX thấy rằng cần áp dụng Điều 47/BLHS năm 2015 và Điều 106/BLTTHS năm 2015 tịch thu để tiêu hủy. Đối với giấy chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe đều mang tên Và A P, xét thấy không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo.

 [7] Về án phí: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 93, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, nay là điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng A P (tên gọi khác: Và A P) phạm tội"Giết người".

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Vàng A P (tên gọi khác: Và A P) tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 05/01/2018).

3. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015, điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao quắm (dao phát nương) dài 90,5cm, cán bằng gỗ dài 56cm, đường kính 3,5cm, phần lưỡi làm bằng kim loại dài 34,5cm, sống dao dày 0,5cm, lưỡi sắc bản rộng nhất 5,8cm, mũi dao dài 10cm, được niêm phong bằng một tờ giấy trắng A4 quấn dán vào cán dao, trên tờ giấy niêm phong có ghi: “Vật chứng vụ Vàng A P, sinh năm: 1967, trú tại: Bản H, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên”.

- Trả lại cho bị cáo Vàng A P:

+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 0402727xy, mang tên Và A P, Công an tỉnh Điện Biên cấp ngày 14/11/2011.

+ 01 (một) giấy phép lái xe mô tô số AC7833ab mang tên Và A P, Sở Giao thông vận tải tỉnhĐiện Biên cấp ngày 24/7/2007.

 (Theo Biên bản giao-nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Côngan tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 30/7/2018).

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Án xử hình sự sơ thẩm công khai có mặt bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại. Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 09/10/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2018/HS-ST ngày 09/10/2018 về tội giết người

Số hiệu:81/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về