Bản án 82/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 82/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 180/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: anh Nguyễn Công K, sinh năm: 1990 (có mặt).

Địa chỉ: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: chị Trần Tố L, sinh năm: 1993 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn anh Nguyễn Công K trình bày: anh và chị L tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2015, vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không phù hợp, vợ chồng không còn chung sống với nhau từ tháng 9/2018 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn, nay anh yêu cầu ly hôn với chị L.

- Về con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/11/2016 hiện đang sống chung với chị L. Sau khi ly hôn, anh K đồng ý để chị L được tiếp tục nuôi con chung, anh K không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: không có.

- Về nợ chung: không có.

Bị đơn chị Trần Tố L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhung chị L vắng mặt không rõ lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của chị L về nội dung đơn khởi kiện của anh K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] anh Nguyễn Công K yêu cầu ly hôn với chị Trần Tố L. Chị L có nơi cư trú tại ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn chị Trần Tố L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: anh Nguyễn Công K và chị Trần Tố L xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống, do tính tình không phù hợp nên vợ chồng thường xuyên cự cãi, mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, hôn nhân không hạnh phúc. Anh K và chị L không muốn hàn gắn tình cảm và không còn chung sống với nhau khoảng 05 tháng.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị L cũng không gửi cho Tòa án ý kiến cũng như không tham gia các phiên hòa giải, nên Tòa án đã lập biên bản tiến hành hòa giải không được. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân của anh K và chị L không thể tiếp tục, cả hai không muốn hàn gắn và không còn chung sống với nhau một thời gian, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh K là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về quan hệ con chung: có 01 con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/11/2016 hiện đang sống chung với chị L. Sau khi ly hôn, anh K đồng ý để chị L được tiếp tục nuôi con chung, anh K không cấp dưỡng nuôi con.

Đối với cháu Bảo, do anh K không yêu cầu và đồng ý để chị L tiếp tục nuôi cháu Bảo nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về mức cấp dưỡng nuôi con chung: do chị L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Anh K không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng anh có quyền tới lui trông nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản anh K thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ý kiến của anh Nguyễn Công K trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về quan hệ nợ chung: ghi nhận việc anh K xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh K và chị L vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[8] Về án phí: căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Anh Nguyễn Công K phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Các Điều 28, 35, 146, 147, 227, 228, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Công K.

- Về quan hệ hôn nhân: anh Nguyễn Công K được ly hôn với chị Trần Tố L.

- Về quan hệ con chung: chị Trần Tố L được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Nguyễn Gia B, sinh ngày 23/11/2016 cho đến tuổi trưởng thành. Anh Nguyễn Công K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Trần Tố L cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Nguyễn Công K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: ghi nhận việc anh K xác định không có nợ chung, nhung sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì anh K và chị L vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: anh Nguyễn Công K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0012638 ngày 19/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Anh K đã nộp xong.

Anh Nguyễn Công K được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Trần Tố L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyên thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:82/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về