Bản án 83/2018/HSST ngày 07/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 83/2018/HSST NGÀY 07/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07/3/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐB, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 81/2018/TLST-HS ngày 12/01/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2018/QĐXXST-HS ngày 22/02/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn D, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1993, tại Điện Biên.

Trú tại: Đội 4A, xã Thanh X, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT: Đội 4A, xã Thanh X, huyện ĐB, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tòng Văn P, sinh năm 1973 và bà: Lò Thị X, sinh năm 1974; có vợ: Lường Thị H, sinh năm 1993 và 01 con, sinh năm 2014; Tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 17/10/2017 "có mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/10/2017, bị cáo đang chơi điện tử ở quán "Bảo Nam" thuộc khu vực đội 4B, xã Thanh X, huyện ĐB thì có Quàng Văn H là bạn quen biết với bị cáo đến rủ bị cáo xuống bản X, xã Thanh A, huyện ĐB với mục đích là mua ma túy về cả hai người cùng sử dụng. Sau đó H dùng xe mô tô chở bị cáo xuống bản X, xã Thanh A thì dùng lại bảo H bảo bị cáo đứng đợi ở đầu bản còn H đi xe mô tô vào trong bản X, xã Thanh A khoảng 03 phút rồi quay lại đưa cho bị cáo 01 gói hê rô in, bị cáo cầm bằng tay trái rồi ngồi phía sau H điều khiển mô tô về đến khu vực đội C17A, xã Thanh X thì H bảo bị cáo xuống xe đứng đợi ở vệ đường, còn H quay lại bản X, xã Thanh A có việc. Hồi 17 giờ 00 phút cùng ngày Công an huyện ĐB phát hiện bắt quả tang bị cáo đang cầm trên tay phải 01 gói hê rô in.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 17/10/2017 đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 0,19 gam;

Tại phiên tòa, bị cáo Tòng Văn D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số: 57/GĐ – PC54 ngày 06/11/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được trích từ vật chứng thu giữ của Tòng Văn D gửi giám định là hêrôin;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 29/CT-VKS ngày 12/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB đã truy tố bị cáo Tòng Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện ĐB vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 7/BLHS năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH 14; điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015, điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện ĐB, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Tòng Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

[2]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Nếu bị phát hiện Nhà nước sẽ xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Nên cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Hành vi cất giấu 0,19 gam hê rô in, với mục đích để sử dụng của bị cáo. Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐB đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo HĐXX thấy rằng: Do không có ý thức rèn luyện bản thân, bị cáo đã nghiện ma túy. Ngày 17/10/2017 bị cáo phạm tội trong vụ án này và bị bắt cho đến nay.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015.

Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần pH áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian.

[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Còn đối với nguồn gốc hê rô in theo bị cáo khai do Quàng Văn H mua và đưa cho bị cáo cầm. Song quá trình điều tra không có căn cứ H đã mua ma túy cho bị cáo, nên CQĐT không có cơ sở điều tra làm rõ và cũng không có cơ sở xử lý đối với Quàng Văn H.

[6]. Vật chứng của vụ án là 0,19 gam hêrôin, gửi giám định 0,08 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định) cần bị tịch thu, tiêu huỷ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS và theo điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[7]. Bị cáo pH chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: dụng khoản 3 Điều 7/Bộ luật hình sự năm 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14; Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Tòng Văn D 12 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 17/10/2017.

3. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 0,19 gam hêrôin, gửi giám định 0,08 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định).

(Vật chứng đã được công an huyện ĐB chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện ĐB ngày 25/01/2018).

4. Án phí: Áp dụng Điều 136/Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo pH chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2018/HSST ngày 07/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về