Bản án 83/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU

BẢN ÁN 83/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 728/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2019/QĐXX-ST ngày 26 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Cao Thị Hoàng P, sinh năm: 1989. Địa chỉ: Đường T, Phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm: 1984. Địa chỉ: Đường L, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn lập ngày 12-7-2019 và các lời khai tại Tòa án chị Cao Thị Hoàng P trình bày: Chị và anh Nguyễn Minh T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2012, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không ai mai mối, ép buộc. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, khoảng 04 năm nay anh chị không hạnh phúc nên chị thường ở nhà cha mẹ, thỉnh thoảng mới về nhà anh T, nguyên nhân là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nhau, không tôn trọng và tin tưởng nhau, anh T không quan tâm đến chị. Anh chị đã ly thân khoảng 06 tháng nay nay, không còn ai quan tâm đến nhau. Tại phiên Tòa hôm nay chị P xác định chị không còn tình cảm gì với anh T nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Minh T.

Về con chung: Có 01 (một) con chung là Nguyễn Nam K, sinh ngày 30- 01-2015, từ ngày anh chị ly thân đến nay con chung vẫn ở cùng chị nên chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai lập ngày 09 tháng 8 năm 2019, anh Nguyễn Minh T trình bày: Anh và chị P xây dựng gia đình với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trước khi kết hôn anh chị có thời gian tìm hiểu nhau 02 năm. Quá trình chung sống hạnh phúc nên hạ sinh được một người con, năm 2014 đến nay anh chị không hạnh phúc nên chị P về nhà cha mẹ ruột ở nhưng anh chị vẫn qua lại với nhau. Từ tháng 4 năm 2019 đến nay anh chị tự nguyện ly thân do tính tình, quan điểm sống trái ngược nhau, không tôn trọng và tin tưởng nhau. Qua yêu cầu ly hôn của chị P anh cũng đồng ý thuận tình ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật, việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến nay không có gì sai phạm. Về nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu do các đương sự cung cấp, đề nghị Tòa án công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Cao Thị Hoàng P và anh Nguyễn Minh T, chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị P, tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Minh T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại đường B, phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nay chị Cao Thị Hoàng P có đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu.

[2] Về hôn nhân: Chị Cao Thị Hoàng P và anh Nguyễn Minh T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hạnh phúc nên hạ sinh được một người con, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình, quan điểm sống trái ngược nhau, không tôn trọng và tin tưởng nhau, không có sự quan tâm, yêu thương, chăm sóc trong gia đình nên anh chị đã ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay. Tại phiên tòa chị P và anh T xác định không còn tình cảm với nhau, anh T đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị P. Căn cứ vào Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình, công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Cao Thị Hoàng P và anh Nguyễn Minh T.

[3] Về con chung: Có 01 (một) con chung là cháu Nguyễn Nam K, sinh ngày 30-01-2015, chị P và anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành. Xét thấy từ ngày anh chị ly thân đến nay cháu K ở với chị P. Căn cứ vào các điều kiện cho sự phát triển tốt về thể chất, đảm bảo việc học hành và sự phát triển tốt về tinh thần, hơn nữa cháu K còn nhỏ, cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ hơn. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị Cao Thị Hoàng P. Chị Cao Thị Hoàng P được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Nam K, sinh ngày 30-01-2015 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), anh Nguyễn Minh T không cấp dưỡng nuôi con. Không chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của anh T [4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Cao Thị Hoàng P phải nộp án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Cao Thị Hoàng P và anh Nguyễn Minh T.

Chị Cao Thị Hoàng P được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Nam K, sinh ngày 30-01-2015 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), anh Nguyễn Minh T không cấp dưỡng nuôi con.Anh Nguyễn Minh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con Về án phí: Chị Cao Thị Hoàng P nộp 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001029 ngày 23-7-2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thành tiền án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2019/HNGĐ-ST ngày 10/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:83/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về