Bản án 85/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 85/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 83/2017/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Giàng A T; tên gọi khác: Không; sinh năm 1960; trú tại: Bản Hua T, xã V H, huyện V H, tỉnh Sơn La; dân tộc: Mông; trình độ văn hoá: Không biết chữ; nghề nghiệp: Trồng trọt; con ông Giàng A N (đã chết); con bà Hàng Thị V (đã chết); bị cáo chưa có vợ; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 30 tháng 5 năm 2017 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người phiên dịch: Anh Sồng A P, sinh năm 1985, trú tại: Tiểu khu 10, thị trấn M C, huyện M C, tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 30/5/2017, tổ công tác Công an huyện V H, tỉnh Sơn La, phối hợp với tổ công tác phương án 279 Công an tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại Bản Hua T, xã V H, huyện V H, tỉnh Sơn La phát hiện trong khu vực nhà của Giàng A T, có Mùi Văn T, sinh năm 1996, trú tại bản Hang T 2, xã V H, huyện V H đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói nilon màu đen bên trong đựng 03 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY. Mùi Văn T khai nhận đó là Hồng phiến của Mùi Văn T vừa mua được của Giàng A T. Ngay lúc đó Giàng A T cũng tự giao nộp số tiền 250.000 đồng và 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 09 viên nén màu hồng và khai nhận tên là Giàng A T, số tiền 250.000 đồng là tiền Giàng A T vừa bán ma túy cho mùi Văn T, gói nilon màu xanh là Hồng phiến của Giàng A T tàng trữ để sử dụng và bán kiếm lời. Căn cứ vào hành vi vi phạm tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V H đã ra lệnh và thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở và đồ vật của Giàng A T. Kết quả không phát hiện thu giữ đồ vật tài liệu gì.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành cân tịnh, xác định trọng lượng 09 viên nén màu hồng thu giữ của Giàng A T có trọng lượng 0,90 gam, lấy 0,41 gam làm mẫu giám định ký hiệu “T1”; 03 viên nén màu hồng thu giữ của Mùi Văn T có trọng lượng 0,31 gam lấy 0,20 gam làm mẫu giám định ký hiệu “T3”. Các mẫu ký hiệu “T1, T3” trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy.

Tại kết luận giám đinh số: 548/KLMT ngày 30/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu “T1, T3,” là chất ma túy; loại chất Methamphetamine; trọng lượng của mẫu gửi giám định T1=0,41; T3=0,20 gam. Tổng trọng lượng ma túy thu giữ là 1,21 gam, loại chất Methamphetamine”.

Tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa Giàng A T khai nhận: Khoảng 07 giờ ngày 30/5/2017 Giàng A T một mình đi đến bản Lũng X, xã Lóng L, huyện V H tìm mua ma túy để sử dụng và bán kiếm lời. Tại đường dân sinh bản Lũng X, xã Lóng L, huyện V H, Giàng A T đã gặp và hỏi mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết được một gói Hồng phiến được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá với giá 700.000 đồng. Sau khi mua được Hồng phiến Giàng A T cất gói Hồng phiến vào chiếc túi vải đeo trên người rồi đi về nhà. Khoảng 09 giờ cùng ngày khi Giàng A T đang ở nhà thì Mùi Văn T đến hỏi mua ma túy. Giàng A T đã bán cho Mùi Văn T 05 viên Hồng phiến được gói bằng nilon màu đen với giá 250.000 đồng. Mùi Văn T cầm gói Hồng phiến ra ngoài nhà Giàng A T rồi lấy 02 viên ra sử dụng hết. khi vừa sử dụng xong thì tổ công tác công an đến kiểm tra, Mùi Văn T tự giác giao nộp 01 gói nilon màu đen bên trong đựng 03 viên Hồng phiến, Giàng A T tự giác giao nộp 01 gói nilon màu xanh đựng 09 viên Hồng phiến và 250.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 61/CT-VKS ngày 28/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V H, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Giàng A T về tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V H giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Giàng A T từ 30 (ba mươi) tháng tù đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Giàng A T. Về vật chứng đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, các điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 0,60 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; tịch thu tiêu hủy môt 01 túi vải màu đen có dây đeo; tịch thu sung công quỹ nhà nước 250.000 đồng của bị cáo Giàng A T.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy;

Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Giàng A T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

Tại phiên tòa bị cáo Giàng A T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 30/5/2017, bị cáo Giàng A T đã có hành vi bán trái phép 5 viên Hồng phiến cho Mùi Văn T thu lợi bất chính 250.000 đồng. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Giàng A T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự như quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên toà của Kiểm sát viên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần vận dụng khoản 1 điều 194 Bộ luật Hình sự có mức hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm tù cho mỗi tội đối với bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung.

Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bản thân nghiện chất ma túy. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự, bị cáo là dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Giàng A T đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Giàng A T còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản có giá trị, không có thu nhập, không đủ điều kiện và khả năng thi hành, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với Mùi Văn T: Do trọng lượng số ma túy của Mùi Văn T chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngày 30/05/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V H đã quyết định trả tự do và ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Mùi Văn T là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Giàng A T mua của một người phụ nữ dân tộc Mông mà Giàng A T không quen biết nên không có căn cứ xử lý người đã bán ma túy cho Giàng A T.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 0,60 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01túi vải màu đen có dây đeo đã qua sử dụng là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 250.000 đồng thu giữ của bị cáo Giàng A T là tiền do phạm tội mà có nên cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Giàng A T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” .

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Giàng A T 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2017 (là ngày bị bắt tạm giam, giữ đối với bị cáo).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự, các điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 0,60 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 chiếc túi vải màu đen có dây đeo đã qua sử dụng.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 250.000 đồng của bị cáo Giàng A T

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:85/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về