Bản án 85/2018/HSST ngày 28/05/2018 về tội giao cấu với trẻ em

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 85/2018/HSST NGÀY 28/05/2018 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM

Trong ngày 28 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 76/2018/HSST ngày 27 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Lý Thanh T, sinh ngày 20/01/1996 tại Thành phố H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại: Ấp 6, xã T, huyện C, Thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 01/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Dương Văn R, sinh năm 1966 và bà Lý Thị H, sinh năm 1967; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22 tháng 12 năm 2017 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Em Lê Thị Bình Ng, sinh ngày 18/9/1998. (có mặt)

Địa chỉ: Ấp 6A, xã T, huyện C, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại bản cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 26/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 3/2013, bị cáo Lý Thanh T (Sau đây gọi tắt là bị cáo) quen biết và nảy sinh tình cảm với bị hại em Lê Thị Bình Ng, sinh ngày 18/9/1998 (Sau đây gọi tắt là bị hại). Sau khi quen nhau, cả hai đã quan hệ tình dục tại nhà của bị cáo, hậu quả bị hại có thai, bà Lê Phước B mẹ của bị hại phát hiện nên dẫn bị hại đi phá thai và làm đơn tố cáo hành vi của bị cáo đến các cơ quan chức năng tại địa phương. Tại thời điểm này, bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên không bị xử lý trách nhiệm hình sự.

Sau sự việc trên, bị cáo vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ tình cảm và qua lại với bị hại.

Ngày 15/02/2014 đến ngày 25/02/2014, bị hại đã bỏ nhà cha mẹ ruột đến chung sống với bị cáo tại nhà của bị cáo. Trong thời gian này, bị cáo đã quan hệ tình dục với bị hại tại nhà của bị cáo tổng cộng 07 (Bảy) lần, tất cả 07 (Bảy) quan hệ bị hại đều chấp thuận, hậu quả bị hại có thai. Ngày 03/4/2014, bà Lê Phước B mẹ của bị hại làm đơn tố cáo hành vi của bị cáo đến các cơ quan chức năng tại địa phương, bị cáo và bị hại bỏ trốn khỏi địa phương đến Thị xã B, Tỉnh BP chung sống với nhau như vợ chồng. Đến ngày 15/11/2014, bị hại đã sinh con và đặt tên là Lê Tống G. Sau khi sinh con, bị hại và bị cáo không còn sống chung như vợ chồng, bị hại đã trở về sinh sống với gia đình tại ấp 6A, xã T, huyện C, Thành phố H.

Ngày 10/7/2017, Công an huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định trưng cầu giám định số 133/QĐ/TCGĐ(TTXH) trưng cầu giám định ADN đối với trẻ Lê Tống G.

Tại Bản kết luận giám định số 2422/C54B ngày 14/9/2017 của Tổng cục Cảnh sát – Phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Lê Thị Bình Ng là mẹ ruột của Lê Tống G.

- Lý Thanh T là cha ruột của Lê Tống G với xác suất 99,999992%.

Vật chứng vụ án: Không có.

Qua điều tra, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi giao cấu với bị hại như đã nêu trên.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Bản cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 26/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Lý Thanh T về tội “Giao cấu với trẻ em” theo điểm a, d khoản 2 Điều 115 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận chính bị cáo đã thực hiện toàn bộ hành vi giao cấu với bị hại như đã nêu trên.

Tại phiên tòa, bị hại yêu cầu xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố luận tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, các chứng cứ khác đã thu thập tại hồ sơ, đã có đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo cấu thành tội “Giao cấu với trẻ em”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên bản cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 26/4/2018, truy tố bị cáo Lý Thanh T về tội “Giao cấu với trẻ em”. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, thật thà khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, d khoản 2 Điều 115; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Lý Thanh T từ 04 (Bốn) năm đến 05 (Năm) năm tù.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt tù đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận không bị ép cung, móm cung, nhục hình, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét hành vi của bị cáo Lý Thanh T thực hiện đối với bị hại em Lê Thị Bình Ng:

Tại các biên bản hỏi cung bị can (Từ BL số 26 đến 33), các biên bản ghi lời khai của bị can (Từ BL số 34 đến 39), các bản tự khai (Từ BL số 65 đến 66), và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận có quan hệ tình cảm với bị hại, bị cáo biết bị hại sinh ngày 18/9/1998, từ ngày 15/02/2014 đến ngày 25/02/2014 tại nhà của bị cáo, bị cáo đã 07 (Bảy) lần thực hiện hành vi quan hệ tình dục với bị hại, cụ thể trong các ngày 15/02/2014, ngày 18/02/2014, ngày 20/02/2014, ngày 22/02/2014, ngày 23/02/2014, ngày 24/02/2014 và ngày 25/02/2014, mỗi ngày thực hiện hành vi giao cấu với bị hại 01 (Một) lần, tất cả 07 (Bảy) lần giao cấu, bị hại đều chấp thuận, bị cáo đều xuất tinh trong âm đạo của bị hại, hậu quả bị hại có thai, ngày 15/11/2014 bị hại đã sinh con đặt tên Lê Tống G. Các lời khai này của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có tại hồ sơ, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với Bản kết luận giám định số 2422/C54B ngày 14/9/2017 của Tổng cục Cảnh sát – Phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bị cáo Lý Thanh T là cha ruột của Lê Tống G với xác suất 99,999992%.

Tại thời điểm từ ngày 15/02/2014 đến ngày 25/02/2014, bị cáo Lý Thanh T là người đã thành niên có hành vi quan hệ tình dục 07 (Bảy) lần với bị hại Lê Thị Bình Ng sinh ngày 18/9/1998 là người dưới 16 tuổi. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lý Thanh T đã cấu thành tội “Giao cấu với trẻ em”, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo về tội “Giao cấu với trẻ em” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và tâm sinh lý của người chưa thành niên, xâm phạm đến sức khỏe, tinh thần, danh dự, nhân phẩm của bị hại, chỉ vì thỏa mãn dục vọng cá nhân, từ ngày 15/02/2014 đến ngày 25/02/2014 bị cáo đã 07 (Bảy) lần thực hiện hành vi giao cấu với bị hại dưới 16 tuổi và hậu quả bị hại có thai và đã sinh con. Xét thấy, bị cáo có hai tình tiết định khung hình phạt nên cần phải áp dụng đối với bị cáo một hình phạt thật nghiêm khắc, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù trong một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tình tiết tăng nặng: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người không biết chữ nên hiểu biết pháp luật có phần hạn chế.

Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo qui định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng của vụ án: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên bản cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 26/4/2018, đã truy tố bị cáo Lý Thanh T về tội “Giao cấu với trẻ em” theo quy định tại điểm a, d khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo Lý Thanh T theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Như nhận định nêu trên, xét thấy có cơ sở nên chấp nhận.

Về án phí: Bị cáo Lý Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thượng vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lý Thanh T phạm tội “Giao cấu với trẻ em”.

1. Áp dụng điểm a, d khoản 2 Điều 115; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009:

Xử phạt: Bị cáo Lý Thanh T 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/12/2017.

2. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thượng vụ Quốc hội: Án phí HS-ST: Bị cáo Lý Thanh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

3. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo Lý Thanh T, bị hại em Lê Thị Bình Ng được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

467
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 85/2018/HSST ngày 28/05/2018 về tội giao cấu với trẻ em

Số hiệu:85/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về