Bản án 86/2018/HSST ngày 29/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 86/2018/HSST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29/11/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 82/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Công Tr, sinh ngày 08/09/1992.

Nơi sinh, nơi cư trú: thôn C, xã Đ, huyện Đ, tỉnh T.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.

Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông Bùi Công Ph, sinh năm 1962 và bà Mai Thị M, sinh năm 1967. Vợ, con: chưa có.

Tiền án: 02

- Bản án hình sự sơ thẩm số 152/2014/HSST ngày 10/9/2014, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, án phí hình sự: 200.000đồng. Ngày 28/10/2014, Tr chấp hành xong án phí, ngày 30/01/2016 Tr chấp hành xong án phạt tù.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2018/HSST ngày 26/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, xử phạt 9 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, án phí 200.000đồng. Ngày 24/4/2018 Tr đã chấp hành xong án phí, ngày 10/8/2018 chấp hành xong án phạt tù.

Tiền sự: không.

Nhân thân: Năm 2010 bị xử phạt vi phạm hành chính theo quyết định số 57/QĐ - XPVPHC ngày 15/01/2010 về hành vi đánh bạc. Hình phạt tiền: 500.000đồng. Tr đã chấp hành xong ngày 19/01/2010.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Công Ph – sinh năm 1962. Địa chỉ: thôn C, xã Đ, huyện Đ, tỉnh T.

* Người chứng kiến:

- Ông Đặng Văn S, sinh năm 1964 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh T

- Ông Phạm Văn Ch, sinh năm 1954 Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện Đ, tỉnh T

(Tại phiên tòa có mặt ông Ph, vắng mặt ông S, ông Ch)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 7 giờ 40 phút ngày 03/10/2018, tại trục đường xã thuộc địa phận thôn H, xã T, huyện Đ, tỉnh T, Công an huyện Đông Hưng phối hợp với Công an xã T bắt quả tang Bùi Công Tr có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng. Cơ quan Công an đã mời người chứng kiến và tiến hành kiểm tra người Tr thu giữ trong lòng bàn tay trái của Tr đang cầm 01 gói nilon màu trắng được gắn kín có kích thước (1.5 x2) cm lượt tiếp theo được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ và có ghi số 2, trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục; thu giữ tại túi quần bên trái đang mặc 01 túi nilon màu đen bên trong có 01 ống novocain; 01 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng. Quản lý 01 xe mô tô biển kiểm soát 17F2 – 5080; 01 điện thoại Samsung cũ.

Quá trình điều tra Tr khai nhận: Khoảng 7 giờ ngày 03 tháng 10 năm 2018, Tr điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 17F2 – 5080 đi từ nhà lên khu vực nhà thi đấu thể thao thuộc địa phận phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình để tìm mua ma túy sử dụng. Do đã có lần mua ma túy ở đây nên Tr tìm gặp một thanh niên khoảng 30 tuổi Tr không biết tên, địa chỉ, chỉ biết người này đi xe Sirius nhưng không nhớ biển kiểm soát. Khi gặp, Tr nói bán cho Tr 200.000đồng ma túy. Người thanh niên đồng ý. Tr lấy tiền đưa cho người này 200.000đồng, người này cầm tiền và đưa cho Tr 01 gói được gắn kín bằng nilon màu trắng, Tr cầm gói ma túy vừa mua ở tay trái sau đó điều khiển xe mô tô về đến khu vực ngã tư Gia Lễ, Tr vào hiệu thuốc tân dược mua 01 bơm kim tiêm và 01 ống novocain đựng vào trong túi nilon màu đen, sau đó Tr cho vào túi quần bên trái đang mặc và đi xe mô tô qua khu vực xã Đ về xã T mục đích đến nhà H (là bạn, Tr không biết họ của H) để lấy tiền nợ. Khi đến khu vực ngã ba thuộc thôn H, xã T thì bị lực lượng Công an giữ lại kiểm tra vì nghi có liên quan đến ma túy. Công an huyện Đông Hưng đã mời người chứng kiến, tiến hành kiểm tra người Tr thu giữ vật chứng và dẫn giải Tr về trụ sở Công an huyện Đông Hưng để giải quyết.

Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Bùi Công Tr nhưng không thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Tại bản kết luận giám định số 363/KLGĐ-PC09 ngày 03/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu gửi giám định thu của Bùi Công Tr là ma tuý, loại Heronie (Hêrôin), có trọng lượng 0,1487 gam (Không phẩy một nghìn bốn trăm tám mươi bảy gam).

Bản cáo trạng số 85/CT - VKSĐH ngày 06/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Bùi Công Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm:

Bị cáo Bùi Công Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố.

Ông Bùi Công Ph là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Chiếc điện thoại sam sung ông mua mục đích để cho Tr liên lạc với gia đình, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17F2 – 5080 là xe mô tô của ông, khi Tr lấy xe mô tô đi mua ma túy gia đình ông không biết. Ông đã được cơ quan điều tra trả lại điện thoại sam sung và xe mô tô biển kiểm soát 17F2 – 5080.

Đại diện VKSND huyện Đông Hưng tham gia phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Bùi Công Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Áp dụng điểm o, khoản 2 điều 249; điểm s khoản1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Công Tr từ 05 năm tù đến 05 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí.

Bị cáo Bùi Công Tr nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Công Tr phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa như:

- Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang do Công an huyện Đông Hưng lập hồi 08 giờ 00 phút ngày 03/10/2018 tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân xã T, huyện Đ.

- Biên bản niêm phong vật chứng.

- Bản kết luận giám định số 363/KLGĐ-PC09 ngày 03/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Lời khai của người chứng kiến: ông Đặng Văn S, ông Phạm Văn Ch.

Có đủ cơ sở để kết luận Bùi Công Tr có hành vi tàng trữ trái phép 0,1487 gam (Không phẩy một nghìn bốn trăm tám mươi bảy gam) hêrôin với mục đích để sử dụng. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, vì vậy hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

...

o) Tái phạm nguy hiểm.

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[3] Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Là người nghiện ma túy, bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và cộng đồng xã hội, là mặt hàng nhà nước độc quyền quản lý, nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã tàng trữ 0,1487 gam hêrôin để sử dụng. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, Vì vậy cần áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào; về tình tiết giảm nhẹ bị cáo sau khi phạm tội thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, phạm tội không có mục đích vụ lợi vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

- Số ma túy thu giữ của Tr còn lại sau giám định, 01 túi nilon trong có chứa 01 ống novocain và 01 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

- 01 điện thoại Samsung quá trình điều tra Tr khai nhận đây là điện thoại bố mẹ mua cho Tr dùng để liên lạc gia đình, không liên quan đến việc Tr tàng trữ trái phép ma túy; 01 xe mô tô biển kiểm soát 17F2 – 5080, qua tra cứu xác định chủ sở hữu xe là anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1978, trú tại Tổ 4, phường K, thành phố T. Lấy lời khai của anh A, anh A khai nhận đã bán xe cho ông Bùi Công Ph (là bố đẻ Tr) với giá 2.900.000đồng nhưng không làm hợp đồng mua bán. Ông Ph thừa nhận gia đình có mua lại chiếc xe trên để làm phương tiện đi lại, khi Tr lấy xe đi mua ma túy ông Ph không biết. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại và chiếc xe mô tô cho gia đình Tr.

[7] Về nguồn gốc ma túy và người bán ma túy:

- Về nguồn gốc số ma túy Tr khai mua của một người thanh niên khoảng 30 tuổi không biết tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực nhà thi đấu thuộc địa phận phường Hoàng Diệu, thành phố Thái Bình nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

- Về nguồn gốc số tiền 200.000 đồng Tr dùng để mua ma túy, là tiền do Tr lao động mà có.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Công Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Bùi Công Tr 05 năm tù ( năm năm tù) thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 0,1320gam ( không phẩy một nghìn ba trăm hai mươi gam) Hêrôin thu giữ của Bùi Công Tr còn lại sau giám định được đựng trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 363/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, 01 túi nilon màu đen trong có chứa 01 ống novocain và 01 bơm kim tiêm chưa qua sử dụng.

(Được thể hiện chi tiết tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/11/2018 giữa Công an huyện Đông Hưng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng)

4. Về án phí: Bị cáo Bùi Công Tr phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2018/HSST ngày 29/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:86/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về