Bản án 86/2019/HSST ngày 09/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN - TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 86/2019/HSST NGÀY 09/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 05 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân quận L Biên, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 95/2019/HSST ngày 22/04/2019 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2019/QĐXXST-HS ngày 24/04/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Chu Ngọc L, sinh năm 1971; ĐKHKTT: Số X tổ Y phường P, quận Đ, TP. Hà Nội; Chỗ ở: Phòng trọ số M ngõ L đường N, tổ T phường N, quận L, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 04/12; Con ông: Chu Viết C (đã chết); Con bà: Hoàng Thị C1, Vợ: Nguyễn Thị Kim C2 (đã chết), có 02 con: Lớn sinh năm 1995 (đã chết), nhỏ sinh năm 1998 04 tiền sự: Từ năm 1995 đến 2005, bị xử lý hành chính về các hành vi: Tàng trữ vũ khí trái phép, Trộm cắp tài sản 05 tiền án:

- Bản án số 316/HSST ngày 27/11/1991, Toà án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 30 tháng tù về tội “Cướp tài sản công dân”. Hạn tù tính từ ngày 28/08/1991.

- Bản án số 264/HSST ngày 10/06/1998, Toà án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 20 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Hạn tù tính từ ngày 03/12/1998.

- Bản án số 86/HSST ngày 30/03/2006, Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn tù tính từ ngày 13/07/2005 - Bản án số 75/HSST ngày 28/02/2013, Toà án nhân dân quận Đống Đa xử phạt 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và 18 tháng tù về tội “Đưa hối lộ”.

Tổng hợp hình phạt là 44 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày 08/10/2012. Ra trại ngày 15/07/2015.

- Bản án số 430/2016/HSST ngày 24/09/2016, Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Hạn tù tính từ ngày 05/06/2016. Ra trại ngày 05/06/2018.

Bị cáo bị bắt ngày 27/12/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên toà)

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h10’ ngày 27/12/2018, tổ công tác Công an phường Ngọc Thuỵ tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ tại số 48 ngõ 78 Ngọc Thuỵ thuộc tổ 6 – phường Ngọc Thuỵ - Long Biên – Hà Nội đã phát hiện Chu Ngọc L có mặt trong phòng trọ, trên tay L đang cầm chiếc cóong thủy tinh sử dụng ma túy. Tiếp tục kiểm tra đã thu giữ được 01 túi ni lông bên trong chứa tinh thể màu trắng để trên chiếc loa nghe nhạc trong góc phòng. Tổ công tác tiến hành thu giữ, niêm phong tang vật và đưa L cùng tang vật về trụ sở để làm rõ.

*Bản kết luận giám định số 77/KLGĐ-PC09 ngày 03/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 1,346 gam; 01 coóng thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine Tại cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên, Chu Ngọc L khai nhận: Bản thân Chu Ngọc L là người nghiện ma tuý. Từ khoảng tháng 9/2018, L cùng bạn gái là chị Triệu Thị Thu Hiền, sinh năm: 1979, HKTT: P104 – C1 tập thể Vĩnh Hồ, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, Hà Nội đến thuê phòng trọ tại số 48 ngõ 78 đường Ngọc Thuỵ, tổ 6 phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, Hà Nội để ở cùng nhau. Khoảng 19 h30’ ngày 27/12/2018, L đi ra khu vực gầm cầu Long Biên thuộc phường Ngọc Thuỵ, quận L Biên để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây L đã gặp và mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 túi ni lông ma tuý đá với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý L mang về nhà trọ, lấy một ít ma tuý ở trong túi ni lông ra bỏ vào coóng để sử dụng, số ma tuý còn lại trong túi nilông L để trên loa nghe nhạc trong góc phòng. Đến khoảng 21h00’ cùng ngày, khi L đang cầm trên tay chiếc coóng có chứa ma tuý để tiếp tục sử dụng thì bị Cơ quan công an kiểm tra hành chính đã phát hiện, thu giữ tang vật và đưa L về trụ sở Đối với chị Triệu Thị Thu Hiền, quá trình điều tra xác định: bản thân chị Hiền hàng ngày đi làm, chị Hiền không sử dụng ma túy và không biết L tàng trữ, sử dụng ma túy trong phòng trọ, do vậy cơ quan Công an không đặt vấn đề xử lý.

Tại bản cáo trạng số 91/CT-VKS ngày 08/04/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo Chu Ngọc L về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

- Bị cáo Chu Ngọc L thành khẩn khai nhận tội như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và không kêu oan, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo có bố là ông Chu Viết Chung là thương binh, vợ và con lớn của bị cáo mới chết do đó buồn chán nên đã phạm tội Đại diện Viện kiểm sát nhân quận Long Biên duy trì công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Viện kiểm sát nhân dân quận L Biên đề nghị như sau:

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hỉnh sự.

Tuyên bố bị cáo Chu Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Xử phạt Chu Ngọc L mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

Xử lý tang vật: Tịch thu tiêu huỷ 1,346 gam Methamphetamine; 01 coóng thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi tố tụng của Cơ quan CSĐT - Công an quận L Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo Chu Ngọc L tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, phù hợp với bản kết luận giám định, sơ đồ hiện trường cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận L Biên.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 10’ ngày 27/12/2018, tổ công tác Công an phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, Hà Nội kiểm tra hành chính tại phòng trọ số 48 ngõ 78 phố Ngọc Thuỵ, tổ 6 phường Ngọc Thuỵ, quận Long Biên, Hà Nội đã phát hiện và bắt quả tang Chu Ngọc L có hành vi tàng trữ trái phép 1,346 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo Chu Ngọc L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo Chu Ngọc L với tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, tiếp tay cho các đối tượng mua bán ma tuý, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội và còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác.

Xét nhân thân bị cáo 04 tiền sự: Từ năm 1995 đến 2005, bị xử lý hành chính về các hành vi: Tàng trữ vũ khí trái phép, Trộm cắp tài sản đều đã hết thời hiệu và có 05 tiền án trong đó có 02 tiền án đã được xoá án, 03 tiền án chưa được xoá án gồm: Bản án số 86/HSST ngày 30/03/2006, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Hạn tù tính từ ngày 13/07/2005; Bản án số 75/HSST ngày 28/02/2013, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, 18 tháng tù về tội Đưa hối lộ, tổng hợp hình phạt là 44 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày 08/10/2012. Ra trại ngày 15/7/2015 và Bản án số 430/HSST ngày 24/9/2016, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Hạn tù tính từ ngày 05/6/2016. Ra trại ngày 05/6/2018. Phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Đây là tình tiết định khung hình phạt.

Điều đó chứng tỏ bị cáo có nhân thân rất xấu, bị cáo đã được cơ quan pháp luật giáo dục nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn lao sâu vào con đường phạm tội do đó cần phải áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo có bố là ông Chu Viết C là thương binh, vợ và con lớn bị cáo L mới chết. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản...”, tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo khai nhận không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên miễn áp dụng hình phạt phạt tiền.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu huỷ 1,346 gam Methamphetamine và 01 coóng thủy tinh có dính ma túy loại Methamphetamine Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và phù hợp với quy định của pháp luật

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Chu Ngọc L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015

- Áp dụng Điều 106, Điều 135, Điều 331, Điều 332 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về Án phí lệ phí Tòa án.

Xử phạt:Chu Ngọc L: 06 (sáu) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2018

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền cho bị cáo Chu Ngọc L.

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 túi niL bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma tuý loại Methamphetamine có khối lượng 1,346 gam và 01 coóng thuỷ tinh thu giữ của Chu Ngọc L đã được niêm phong trong một phòng bì theo phiếu nhập kho vật chứng của Cơ quan CSĐT – Công an quận Long Biên ngày 21/01/2019.

Về án phí: Bị cáo Chu Ngọc L phải chịu 200.000 đồng án phí HSST Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 86/2019/HSST ngày 09/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:86/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về