Bản án 88/2019/HS-ST ngày 03/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 88/2019/HS-ST NGÀY 03/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 124/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Huỳnh Thị H - sinh năm 1972 tại Đồng Nai; ĐKHKTT: Tổ 2 khu phố 5, XH, LK, Đồng Nai; nơi cư trú: Thôn VC, xã VT, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn Đ (chết) và bà Lê Thị T (chết); chồng: Nguyễn Tường P- sinh năm 1975; có 02 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2012; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. Có mặt.

- Bị hại: Lương Thị Thanh T - sinh năm 1992; địa chỉ: 05 BD, phường VH, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Nguyễn Văn T- sinh năm 1996; trú tại: Thôn TN, xã NT, thị xã NH, Khánh Hòa. Vắng mặt.

+ Nguyễn Tường V- sinh năm 1999; trú tại: 43 NTĐ, phường PL, thành phố N, Khánh Hòa. Vắng mt.

+ Nguyễn Tường P- sinh năm 1975; trú tại: 43 NTĐ, phường PL, thành phố N, Khánh Hòa. Có mặt.

+ Ngô Huỳnh Thanh M- sinh năm 1999; trú tại: Tổ 2 khu phố 5 XH, LK, Đồng Nai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 13/01/2019, ông Lương Minh T (sinh năm 1957; trú tại: 05 BD, phường VH, N) điều khiển xe ô tô hiệu Madza CX5, biển kiểm soát 79A-05335 chở gia đình đến siêu thị Mega Mark (Thôn VC, xã VT, N) để mua đồ. Lúc này chị Lương Thị Thanh T (sinh năm 1992, con gái ông T) xuống xe và có để lại 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng trong túi đựng đồ phía sau ghế lái xe trên xe ô tô Madza CX5. Sau đó ông T điều khiển xe ô tô đến rửa xe tại tiệm rửa xe “TP” có địa chỉ: Thôn VC, xã VT, N do anh Nguyễn Tường P- sinh năm 1975 làm chủ. Tại đây anh P cùng vợ tên Huỳnh Thị H- sinh năm 1972, con trai tên Nguyễn Tường V- sinh năm 1999 và nhân viên tên Nguyễn Văn T- sinh năm 1996 tham gia rửa xe ô tô cho ông T. Sau khi rửa phía bên ngoài xe thì ông T mở khóa cửa xe để T, V, H vào vệ sinh bên trong xe. V nhìn thấy chiếc điện thoại di động Iphone X để trong túi sau ghế lái xe thì lấy ra xem và nói với T: “Có cái Iphone X nè, mày coi để dành tiền mua cái mà xài” thì lúc này có điện thoại gọi vào máy Iphone X, máy đổ chuông nên V bỏ lại vị trí cũ rồi cùng T ra khỏi xe ô tô để lau phía trước xe. Thấy vậy, H nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại Iphone X nên H đi ra phía sau ghế lái xe giả vờ lau chùi dưới sàn xe. Quan sát thấy ông T ngồi xa không chú ý, H lén lút thò tay vào túi sau ghế lái lấy trộm chiếc điện thoại Iphone X rồi cất giấu vào túi áo khoác ngoài màu đỏ. T và V tiếp tục lau dọn xe ô tô thì T nhìn thấy H lấy máy điện thoại Iphone X.

Khoảng 10 phút sau, ông T thanh toán tiền rửa xe rồi quay lại đón chị T thì chị T phát hiện bị mất chiếc điện thoại di động Iphone X nên ông T quay lại tiệm rửa xe “TP” để hỏi ai lấy điện thoại nhưng không ai thừa nhận, sau đó ông T đi về. Sau khi lấy trộm được điện thoại, H tắt nguồn, tháo sim, vỏ ốp điện thoại vứt bỏ ngoài ruộng phía sau nhà rồi cất giấu điện thoại trong tủ quần áo. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày H giấu điện thoại trên vào trong gói quà và gọi điện cho con gái là Ngô Huỳnh Thanh M- sinh năm 1999 ở Đồng Nai nhờ cất giùm điện thoại Iphone X để trong hộp quà. M không biết điện thoại do H trộm cắp mà có nên đồng ý nhận. Đồng thời H nhờ anh P gửi hộp quà theo xe khách CT về cho con gái.

Qua đấu tranh, H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp điện thoại di động Iphone X 256GB như trên.

Tại bản kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự- UBND Tp.N số 45/HĐĐG ngày 17/01/2019 kết luận giá trị điện thoại di động Iphone X 256GB là 19.992.000đ (mười chín triệu chín trăm chín mươi hai nghìn đồng).

Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động Iphone X 256GB (đã trả lại cho chủ sở hữu tại biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 15/01/2019).

Bản Cáo trạng số 114/CT-VKSNT ngày 01 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố N để xét xử Huỳnh Thị H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Huỳnh Thị H theo tội danh, khung hình phạt như trên và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự 2015, tuyên phạt bị cáo từ 03 (ba) tháng đến 06 (sáu) tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Huỳnh Thị H thừa nhận vào khoảng hơn 09 giờ ngày 13/01/2019, lợi dụng không ai để ý khi rửa xe ô tô Madza CX5, bị cáo đã trộm cắp chiếc điện thoại di động Iphone X màu trắng của chị Lương Thị T trong túi đựng đồ phía sau ghế lái xe ô tô Madza CX5. Sau khi lấy trộm được điện thoại, bị cáo tắt nguồn, tháo sim, vỏ ốp điện thoại vứt bỏ ngoài ruộng phía sau nhà rồi cất giấu điện thoại trong tủ quần áo. Đến khoảng 15 giờ ngày hôm sau 14/01/2019 bị cáo giấu điện thoại trên vào trong gói quà và gửi cho con gái đang sinh sống ở Đồng Nai. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận khoảng hơn 09 giờ ngày 13/01/2019 tại Thôn VC, xã VT, N, Huỳnh Thị H đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động Iphone X của chị Lương Thị Thanh T, tài sản trộm cắp có giá trị 19.992.000đ (mười chín triệu chín trăm chín mươi hai nghìn đồng), hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, bản Cáo trạng số 114/CT-VKSNT ngày 01 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa truy tố Huỳnh Thị H về tội ‘Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Huỳnh Thị H là nguy hiểm, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất ổn định trật tự xã hội ở địa phương. Vì vậy phải xử lý nghiêm minh.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản phạm tội đã được thu hồi trả cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ, chồng bệnh tật, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, i, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và xét không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo tự cải tạo, giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo.

[2] Đối với Nguyễn Văn T, mặc dù biết rõ Huỳnh Thị H đã trộm cắp điện thoại Iphone X nhưng không tố giác. Tuy nhiên tội phạm mà H thực hiện phạm vào khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự nên hành vi của T không đủ yếu tố cấu thành tội “Không tố giác tội phạm” quy định tại Điều 390 Bộ luật hình sự.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo trộm cắp của chị Lương Thị Thanh T 01 điện thoại di động Iphone X, tại phiên tòa chị T vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt và có lời khai đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên Tòa không xét.

[4] Về vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động Iphone X 256GB đã trả lại cho chủ sở hữu.

[5] Về án phí: Bị cáo Huỳnh Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật với số tiền là 200.000đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Huỳnh Thị H.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Huỳnh Thị H cho Ủy ban nhân dân xã V T, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

+ Không xét bồi thường thiệt hại về tài sản giữa bị cáo đối với bị hại chị Lương Thị Thanh T.

- Về án phí: Bị cáo Huỳnh Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

- Quyền kháng cáo của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án, quyền kháng cáo của bị hại vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 88/2019/HS-ST ngày 03/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:88/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về