Bản án 89/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 89/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 155/2018/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số117/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 76/2018/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị H sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn 10, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Đỗ Hữu D, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn 3, xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 05/3/2018, và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị Trần Thị H (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Đỗ Hữu D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 08 tháng 4 năm 2009. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, cuộc sống chung vợ chồng không thống nhất. Anh D mải chơi, thiếu quan tâm chăm sóc đến gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn, chị H và anh D đã sống ly thân từ tháng 6 năm 2017 cho đến nay. Chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Hữu D.

Về con chung: Chị Trần Thị H khai: Chị và anh Đỗ Hữu D có 02 con chung tên Đỗ Hữu D, sinh ngày 10 tháng 3 năm 2010 và Đỗ Hữu Ch, sinh ngày 27 tháng 6 năm 2012. Hiện nay các con chung đang do anh D nuôi. Trường hợp ly hôn, chị H có nguyện vọng để anh D tiếp tục nuôi dưỡng các con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trần Thị H trình bày: Chị có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi 02 con chung cùng anh D mỗi tháng là 1.000.000 đồng, kể từ tháng 8 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Chị Trần Thị H khai: Chị và anh Đỗ Hữu D không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 02/4/2018, bị đơn là anh Đỗ Hữu D trình bày:

Về hôn nhân: Anh Đỗ Hữu D thừa nhận lời khai của chị Trần Thị H về thời gian, điều kiện và hình thức kết hôn là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, theo anh D là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, hay xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Chị H tự ý bỏ nhà đi, anh D có tìm gọi nhưng chị H không về. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải. Do mâu thuẫn vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2017 cho đến nay. Chị H xin ly hôn, anh D đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh Đỗ Hữu D khai anh và chị Trần Thị H có 02 con chung tên Đỗ Hữu D sinh ngày 10 tháng 3 năm 2010 và Đỗ Hữu Ch sinh ngày 27 tháng 6 năm 2012. Hiện anh D đang trực tiếp nuôi cả hai con chung. Trường hợp ly hôn, anh D có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con chung và yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung, mức cấp dưỡng như thế nào là tùy chị H, anh không có yêu cầu cụ thể.

Về tài sản chung: Anh Đỗ Hữu D khai: Anh và chị H không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị H và anh Đỗ Hữu D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H và anh D được ly hôn. Về con chung: Chị Trần Thị H và anh Đỗ Hữu D có 02 con chung tên Đỗ Hữu D, sinh ngày 10 tháng 3 năm 2010 và Đỗ Hữu Ch, sinh ngày 27 tháng 6 năm 2012. Khi ly hôn, chị H và anh D đều thống nhất để anh D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung cho anh Đỗ Hữu D được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là Đỗ Hữu D và Đỗ Hữu Ch cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Tại phiên tòa chị H nhận trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con chung cùng anh D mỗi tháng 1.000.000 (Một triệu đồng) kể từ tháng 8 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Xét thấy mức cấp dưỡng của chị Trần Thị H là phù hợp với điều kiện kinh tế của chị H và chi phí cho việc nuôi dưỡng con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận. Về tài sản chung, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Đỗ Hữu D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh D vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Dũng.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị H và anh Đỗ Hữu D được xác lập năm 2009 là hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng 9 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, trong sinh hoạt dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn, vợ chồng hiện đã sống ly thân nhau. Chị H xin ly hôn, anh D thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn nên cũng đồng lý ly hôn. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị H và anh D được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị H và anh Đỗ Hữu D có 02 con chung tên Đỗ Hữu D sinh ngày 10 tháng 3 năm 2010 và Đỗ Hữu Ch, sinh ngày 27 tháng 6 năm 2012. Hiện anh D đang nuôi cả hai con. Khi ly hôn, anh D và chị H đều thống nhất để anh D tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con. Tuy nhiên việc để giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, từ khi sống ly thân đến nay, anh D là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Mặt khác, anh D có công việc và thu nhập ổn định, con chung Đỗ Hữu D có nguyện vọng được tiếp tục ở với bố. Vì vậy giao cho anh Đỗ Hữu D được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Đỗ Hữu D, sinh ngày 10 tháng 3 năm 2010 và Đỗ Hữu Ch, sinh ngày 27 tháng 6 năm 2012 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trần Thị H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con cùng anh Đỗ Hữu D mỗi tháng là 1.000.000 đồng, kể từ tháng 8 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật.

[5] Về tài sản chung: Chị Trần Thị H và anh Đỗ Hữu Dg không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Trần Thị H phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị H và anh Đỗ Hữu D.

2. Về con chung: Giao cho anh Đỗ Hữu D trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Đỗ Hữu D, sinh ngày 10 tháng 3 năm 2010 và Đỗ Hữu Ch, sinh ngày 27 tháng 6 năm 2012 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Trần Thị H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi hai con chung cùng anh Đỗ Hữu D mỗi tháng là 1.000.000 đồng, kể từ tháng 8 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật.

Về lãi suất chậm thi hành án đối với khoản tiền phải cấp dưỡng: Kể từ ngày Bản án có hiệu lưc pháp luật cho đến khi thi hành án xong, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

4. Về án phí: Chị Trần Thị H phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Cộng thành 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0008794 ngày 07 tháng 3 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Trần Thị H còn phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Trần Thị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Đỗ Hữu D có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án giao cho hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2018/HNGĐ-ST ngày 28/06/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:89/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về