Bản án 89/2019/HSST ngày 27/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 89/2019/HSST NGÀY 27/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 8 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 90/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:

Lê Thị Tường V, sinh ngày: 27/6/1989 tại Gia Lai;

Nơi cư trú: Tổ 7, phường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không.

Con ông Lê Công C, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Hồng H, sinh năm 1968.

Chồng (đã ly hôn): Trần Minh B - Sinh năm 1984.

Sống chung như vợ chồng với anh Trần Thanh Phúc, sinh năm 1986. Hiện trú tại Tổ 09, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai.

Bị cáo có 02 người con; lớn nhất sinh năm 2007 (hiện ở cùng với anh Trần Minh Báu tại Tổ 13, phường P, thành phố P, tỉnh Gia Lai), nhỏ nhất sinh năm 2017 (hiện ở cùng với anh Trần Thanh Phúc tại Tổ 09, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai).

Nhân thân:

Tại bản án số 26/2010/HSST ngày 14/01/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Ngày 05/10/2010 chấp hành xong hình phạt tù.

Tại bản án số 22/2010/HSST ngày 24/12/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Ngày 01/10/2011 chấp hành xong hình phạt tù.

Tại bản án số 29/2012/HSST ngày 21/03/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Ngày 22/05/2013 chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền án: Tại Bản án số 113/2013/HSST ngày 12/8/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản chiếm đoạt 2.000.000 đồng) theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm”); chấp hành án tại Trại giam Gia Trung. Ngày 15/5/2015, chấp hành xong hình phạt tù. Hiện bị cáo chưa thi hành phần án phí hình sự sơ thẩm.

Tiền sự: Không.

Bị cáo Lê Thị Tường V bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/02/2019 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Pleiku. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bị hại:

- Anh Nguyễn Thanh L; sinh năm: 1967. Địa chỉ: 226 T, tổ 8, phường Đ, thành phố P, tỉnh Gia Lai.Vắng mặt.

- Chị Trần Thị Ngọc T; sinh năm 1985. Địa chỉ: 67 D, tổ 10, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Trần Thị Bích N; sinh năm 1982. Địa chỉ: 50/20 đường L, tổ 3, phường Đ2, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Bùi Thị Thảo L; sinh năm 1998. Địa chỉ: Hẻm 204 đường L, tổ 3, phường Đ 2, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Trần Thị T; sinh năm 1968. Địa chỉ: 504 đường P, tổ 2, phường Đ2, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Thành T; sinh năm: 1985. Địa chỉ: 69 H, phường D, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Thanh T; sinh năm: 1981. Địa chỉ: 279 N, tổ 1, phường P, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn Q; sinh năm: 1987. Địa chỉ: 302 H, tổ 1, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Phan Thị X; sinh năm: 1974. Địa chỉ: Tổ 3, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Huỳnh Thị H; sinh năm: 1992. Địa chỉ: Tổ 2, phường Chi Lăng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Chị Bùi Thị L; sinh năm: 1986. Địa chỉ: Thôn T, xã Y, huyện I, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Anh Trần Thanh P; sinh năm: 1986. Địa chỉ: Tổ 9, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 16/7/2018 đến ngày 08/01/2019, Lê Thị Tường V đã thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 15/7/2018, V dẫn theo con gái là cháu Trần Lê Gia H (sinh ngày 18/6/2017) đến thuê phòng số 01 nhà nghỉ H tại số 241 đường L, Tổ 3, phường Đ 2, thành phố P. Đến khoảng 00 giờ 54 phút ngày 16/7/2018, V đi ra quầy lễ tân, thấy phòng ngủ của anh Nguyễn Thanh L (sinh năm 1967, trú tại Tổ 8, phường Y, thành phố P; làm quản lý tại nhà nghỉ) không khóa cửa, bên trong không có người nên V nảy sinh ý định vào tìm tài sản để trộm cắp.

Lúc này, V đi vào phòng, kiểm tra trong hộc tủ đựng quần áo, thấy có số tiền 27.000.000 đồng nên đã lấy mang về phòng số 01 cất giấu. Khoảng 07 giờ ngày 16/7/2018, V lấy tiền cất giấu vào trong người rồi cùng cháu H đi trả phòng. Sau khi có được số tiền này, V đã sử dụng vào việc đi khám chữa bệnh bướu cổ cho V tại thành phố Đà Nẵng và sử dụng vào việc mua sữa cho cháu H hết.

Sau khi phát hiện bị mất tiền, anh L đã coi camera an ninh của nhà nghỉ thì thấy V là người đã đi vào phòng ngủ của anh L. Đến ngày 10/8/2018, anh L đến Công an thành phố P trình báo, đồng thời giao nộp 01 đĩa CD lưu giữ hình ảnh V đi vào phòng ngủ của anh L để lấy trộm tiền.

Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 01/8/2018, V mang đồ đến giặt tại tiệm giặt ủi của chị Trần Thị Ngọc T (sinh năm 1985) ở số 67 đường T, Tổ 10, phường H, thành phố P. Khi đến nơi, V thấy chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus 64G, màu vàng hồng của chị T để trên bàn tại phòng bếp, lúc này chị T và nhân viên đang làm việc ở khu giặt ủi phía sau nhà nên V đã lấy chiếc điện thoại này bỏ vào túi quần rồi bỏ đi. Khoảng 14 giờ cùng ngày, V mang chiếc điện thoại này đến bán cho anh Nguyễn Thành T (sinh năm 1985) là chủ tiệm tiệm điện thoại A tại số 69 đường H, phường D, thành phố P, được số tiền 5.000.000 đồng. Số tiền này, V đã sử dụng hết vào việc mua sữa cho cháu H và đi chơi cùng bạn bè.

Sau khi phát hiện bị mất chiếc điện thoại, chị T coi lại camera an ninh thì thấy V đã lấy trộm chiếc điện thoại nên đã đến Công an phường H trình báo, đồng thời giao nộp 01 đĩa CD ghi lại hình ảnh mà V đã lấy trộm chiếc điện thoại. Ngày 02/8/2018, anh Nguyễn Thành T giao nộp chiếc điện thoại đã mua của V cho Cơ quan điều tra. Qua định giá, xác định: Chiếc điện thoại Iphone 8 Plus bị chiếm đoạt có trị giá 14.600.000 đồng. Sau khi định giá xong, Cơ quan điều tra đã trả chiếc điện thoại cho chị Trần Thị Ngọc T

Vụ thứ ba: Khoảng 16 giờ ngày 05/8/2018, V đi bộ ngang qua nhà của chị Trần Thị Bích N (sinh năm 1982) tại số nhà 50/20 đường L, Tổ 6, phường T, thành phố P, thấy cửa mở, phòng khách không có người nên nảy sinh ý định vào trộm cắp tài sản. Khi đi vào phòng khách, V thấy chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus 64G, màu đỏ có ốp lưng bằng nhựa trong để ở gần chân cầu thang nên đã lấy chiếc điện thoại này rồi bỏ đi. Chiều cùng ngày, V mang chiếc điện thoại này đến bán cho anh Nguyễn Thanh T (sinh năm 1981) là chủ tiệm điện thoại di động T tại số 279 đường N, Tổ 01, phường P, thành phố P, được số tiền 5.000.000 đồng. Số tiền này, V đã sử dụng hết vào việc mua sữa cho cháu H và đi chơi cùng bạn bè.

Sau khi phát hiện chiếc điện thoại bị mất, chị N đã đến Công an phường Đ2 trình báo. Ngày 13/8/2018, anh Nguyên Thanh T đã giao nộp chiếc điện thoại kèm theo ốp lưng trên cho Cơ quan điều tra. Qua định giá, xác định: Chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus 64G kèm theo ốp lưng bị chiếm đoạt có trị giá 17.500.000 đồng. Sau khi định giá xong, Cơ quan điều tra đã trả chiếc điện thoại kèm theo ốp lưng cho chị Trần Thị Bích N.

Vụ thứ tư: Khoảng 15 giờ ngày 10/8/2018, V điều khiển xe mô tô biển số 81F5-0036 đi ngang qua nhà chị Bùi Thị Thảo L (sinh năm 1998) tại hẻm 204 đường L, Tổ 03, phường Đ2, thành phố P, thấy cửa mở, bên ngoài phòng khách không có người nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lúc này, V dựng xe ở ngoài đường, rồi đi vào trong nhà thấy có chiếc điện thoại di động Iphone 6S Plus 16G, màu xám đen có ốp lưng bằng nhựa màu đen để ở trên giường trong phòng ngủ nên đã lấy rồi ra ngoài điều khiển xe mô tô biển số 81F5-0036 bỏ đi. Chiều cùng ngày, V mang chiếc điện thoại này đến bán cho anh Nguyễn Thanh T (sinh năm 1981) là chủ tiệm điện thoại di động T tại số 279 đường N, Tổ 01, phường P, thành phố P, được số tiền 1.700.000 đồng. Số tiền này, V đi chơi cùng bạn bè hết một phần, số còn lại đã làm rơi không rõ ở đâu nên không thu hồi được.

Sau khi phát hiện chiếc điện thoại bị mất, chị L đã đến Công an phường Đ2 trình báo. Ngày 13/8/2018, anh Nguyễn Thanh T đã giao nộp chiếc điện thoại kèm theo ốp lưng trên cho Cơ quan điều tra. Qua định giá, xác định: Chiếc điện thoại di động Iphone 6S Plus 16G kèm theo ốp lưng bị chiếm đoạt có trị giá 4.500.000 đồng. Sau khi định giá xong, Cơ quan điều tra đã trả chiếc điện thoại kèm theo ốp lưng cho chị Bùi Thị Thảo L.

Vụ thứ năm: Khoảng 11 giờ ngày 08/01/2019, V điều khiển xe mô tô biển số 81V1-505.25 đi ngang qua nhà chị Trần Thị T (sinh năm 1968) tại số 504 đường P, Tổ 02, phường Đ2, thành phố P, thấy cửa mở và không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lúc này, V dựng xe trước cổng rồi vào phòng bếp lấy được chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen kèm theo ốp lưng bằng nhựa màu xám. Khi V cầm chiếc điện thoại đi ra đến cổng nhà chị Th thì chị Th phát hiện. Lúc này, V điều khiển xe mô tô biển số 81V1-050.25 bỏ chạy. Khoảng 11 giờ cùng ngày, V mang chiếc điện thoại này đến bán cho anh Nguyễn Văn Q (sinh năm 1987) là chủ tiệm tiệm điện thoại H tại số 302 đường H, Tổ 01, phường H, thành phố P, được số tiền 2.000.000 đồng. Số tiền này, V đã sử dụng hết vào việc mua sữa cho cháu H và đi chơi cùng bạn bè.

Sau khi phát hiện chiếc điện thoại bị mất, chị Th đã đến Công an phường Đ2 trình báo. Sau khi mua chiếc điện thoại của V, anh Q đã bán lại cho khách hàng (không rõ lai lịch) nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Qua định giá xác định chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đen kèm ốp lưng bị chiếm đoạt có trị giá 7.200.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 94/CT-VKS ngày 10/6/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Lê Thị Tường V về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại các điểm c, g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị tuyên bố Lê Thị Tường V phạm tội "Trộm cắp tài sản”; đề nghị:

Về hình phạt:

- Căn cứ điểm c, g khoản 2 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt bị cáo Lê Thị Tường V mức án từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 46; Điều 48 Bộ luật hình sự 2015; Điều 589 Bộ luật dân sự 2015; buộc bị cáo bồi thường cho các bị hại số tiền cụ thể như sau:

- Bồi thường cho bị hại Nguyễn Thanh L số tiền 27.000.000 đồng;

- Bồi thường cho bị hại Trần Thị T số tiền: 7.200.000 đồng;

- Bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thanh T số tiền: 5.000.000 đồng.

Về án phí: buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận có các hành vi trộm cắp như cáo trạng đã nêu, nhận thấy các hành vi đó của mình là sai trái, vi phạm pháp luật; bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt đối với mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2 ] Lời khai của bị cáo, lời khai của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 16/7/2018 đến ngày 08/1/2019, tại địa bàn thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, Lê Thị Tường V đã thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản, chiếm đoạt số tiền 27.000.000 đồng và 04 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone có trị giá 43.800.000 đồng. Tổng trị giá tài sản mà Lê Thị Tường V đã chiếm đoạt là 70.800.000 đồng.

[3 ] Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có tiền án về tội “ Trộm cắp tài sản” và đã phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà sau khi mãn hạn tù vẫn tiếp tục trộm cắp tài sản; tài sản bị cáo đã chiếm đoạt được có tổng giá trị là 70.800.000đồng nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung tăng nặng là “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000đồng đến dưới 200.000.000đồng”, quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã “tái phạm” lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên hành vi phạm tội lần này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku đã truy tố bị cáo Lê Thị Tường V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại các điểm c, g khoản 2 Điều 173 BLHS 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Do vậy, cần thiết phải xử phạt các bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng: do bị cáo thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản nên đã phạm vào tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 là “ Phạm tội 02 lần trở lên”

[5] Khi lượng hình, Hội đồng xét xử sẽ xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội đã ra đầu thú.

[6] Về bồi thường dân sự: Tại đơn xin vắng mặt bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu cụ thể như sau:

- Bị hại Nguyễn Thanh L yêu cầu bị cáo bồi thường 27.000.000 đồng;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thanh T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng - Tại phiên tòa bị hại Trần Thị T yêu cầu bị cáo bồi thường 7.200.000 đồng.

Xét thấy yêu cầu của các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chính đáng nên chấp nhận và buộc bị cáo phải bồi thường.

Riêng các bị hại Trần Thị Ngọc T, Trần Thị Bích N, Bùi Thị Thảo L đã nhận lại toàn bộ tài sản bị trộm cắp, không có yêu cầu gì thêm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành Tg không có yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 5.000.000đồng đã trả cho bị cáo khi mua điện thoại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Đối với các xe mô tô biển số 81F5-0036 và xe mô tô biển số 81V1-050.25 mà V đã sử dụng làm phương tiện đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, qua điều tra xác định: Xe mô tô biển số 81F5-0036 là của chị Huỳnh Thị H (sinh năm 1992, trú tại Tổ 02, phường C, thành phố P); xe mô tô biển số 81V1-050.25 là của chị Bùi Thị L (sinh năm 1986, trú tại Tổ 02, phường Đ2, thành phố P) đều là bạn quen biết của V. Do là bạn bè, nên chị H và chị Ln cho Lê Thị Tường V mượn xe để làm phương tiện đi lại. Việc V sử dụng xe làm phương tiện đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì chị H và chị L đều không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku không thu giữ 02 chiếc xe này là có căn cứ.

Đối với các anh Nguyễn Thành T, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Văn Q là những người đã mua điện thoại của V, nhưng khi mua thì các anh T, Tân và Q không biết những chiếc điện thoại này do V trộm cắp mà có, nên không có căn cứ để xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh và hình phạt

- Căn cứ các điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, tuyên bố bị cáo Lê Thị Tường V phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt bị cáo Lê Thị Tường V 04 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/2/2019.

Về bồi thường dân sự: Căn cứ Điều 46; Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, Điều 589 Bộ luật dân sự 2015: buộc bị cáo Lê Thị Tường V phải bồi thường cho các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan số tiền cụ thể như sau:

- Bồi thường cho bị hại Nguyễn Thanh Lg số tiền 27.000.000 đồng;

- Bồi thường cho bị hại Trần Thị T số tiền: 7.200.000 đồng;

- Bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thanh T số tiền: 5.000.000 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.960.000đồng án phí dân sự sơ thẩm;

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết

Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2019/HSST ngày 27/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:89/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về