Bản án 89/2019/ST-HNGĐ ngày 30/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 89/2019/ST-HNGĐ NGÀY 30/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2019/TLST-HNGĐ ngày 07/5/2019 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lô Thị X – sinh năm 1993.

2. Bị đơn: Anh Vi Văn M – sinh năm 1987.

Đều có địa chỉ tại: Bản M, xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An.

Chị X có mặt, anh M vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, lời trình bày tại Tòa án và tại phiên tòa chị Lô Thị X trình bày: Chị với anh Vi Văn M kết hôn với nhau vào ngày 30/5/2011 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn chị và anh M sống hạnh phúc được một thời gian, đến đầu năm 2012 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân vợ, chồng mâu thuẫn là do anh M không chịu khó làm ăn và nghiên ma túy, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Mặc dù đã được chị khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh M không thay đổi. Trong thời gian chung sống của vợ chồng anh M thường xuyên đi khỏi nhà, không chăm lo đến hạnh phúc gia đình, không yêu thương chia sẻ với những khó khăn trong cuộc sống với vợ. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình cũng như chính quyền địa phương hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện nay vợ chồng đang sống ly thân, tình cảm vợ chồng thực sự không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Vi Văn M.

Về con chung: Chị và anh M có 01 người con chung là: Vi Thành D, sinh ngày 27/11/2010 Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Lô Thị X không cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm anh M vắng mặt mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng anh M không có ý kiến gì.

Ý kiến của cháu Vi Thành D được thể hiện tại biên bản lấy lời khai ngày 27/5/2019. Nguyện vọng của cháu D sau khi bố mẹ ly hôn là muốn sống với mẹ là Lô Thị X.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Áp dụng: khoản 1 điều 51, khoản 1 Điều 56; Các Điều 58; 81; 82; 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho chị Lô Thị X được ly hôn anh Vi Văn M, giao con chung cho chị X nuôi dưỡng, chị X phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, bị đơn có địa chỉ tại huyện Con Cuông nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa lần thứ nhất ngày 31/7/2019 bị đơn đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử đã ra Quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn đã được niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh M là đúng với quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Cuộc hôn nhân giữa chị Lô Thị X và anh Vi Văn M có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Nghệ An trên cơ sở tự nguyên là hôn nhân hợp pháp, quá trình chung sống do anh M không chịu khó làm ăn, không quan tâm đến vợ, con dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng sống ly thân đã lâu. Trong quá trình hòa giải cũng như tại phiên tòa anh M vắng mặt nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy vợ chồng chị X và anh M thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Xét tình cảm vợ chồng giữa chị X và anh M thật sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lô Thị X là có căn cứ.

Về con chung: Chị Lô Thị X và anh Vi Văn M có 01 người con chung là Vi Thành D, sinh ngày 27/11/2010. Nay ly hôn chị X có nguyện vọng được nuôi cháu D cho đến khi cháu D đủ tuổi, trưởng thành. Quá trình giải quyết nguyện vọng của cháu Vi Thành D là được sống với mẹ là chị Lô Thị X. Để đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho cháu D Hội đồng xét xử thấy rằng cần giao cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng cháu D là hợp lý .

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lô Thị X không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Lô Thị X không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét. Nếu sau này anh Vi Văn M có yêu cầu thì Tòa án sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

Về án phí: Chị X phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 1 điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 207; 227; 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lô Thị X ly hôn anh Vi Văn M.

Về con chung: Giao cháu Vi Thành D, sinh ngày 27/11/2010 cho chị Lô Thị X nuôi dưỡng cho đến lúc D tròn 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Vi Văn M. Anh M có quyền thăm non, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vì lợi ích mọi mặt của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con hoặc người trực tiếp nuôi con.

Về án phí: áp dụng điều 147 BLTTDS; điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Chị Lô Thị X phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị X đã nộp 300.000 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số 0000096 ngày 07/5/2019. Chị X đã nộp đủ án phí ly hôn.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 89/2019/ST-HNGĐ ngày 30/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:89/2019/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về