Bản án 90/2018/DS-PT ngày 09/05/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 90/2018/DS-PT NGÀY 09/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN 

Ngày 09 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý 32/2018/TLPT-DS ngày 02 tháng 3 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2018/DSST ngày 13 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 70/2018/QĐ-PT ngày 20 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Đại lý thuốc thú y, thủy sản, phân bón, thức ăn tôm N

Người đại diện theo pháp luật: Chị Phan Kim T, sinh năm 1972

Người đại diện theo ủy quyền của chị Phan Kim T: Anh Văn Thanh H, sinh năm 1971 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Số 93, đường L, khóm A, phường B, thành phố C, tỉnh Cà Mau..

- Bị đơn: Anh Trần Quốc T, sinh năm 1976 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Văn Thanh H, sinh năm 1971 (có mặt); Địa chỉ: Số 93, đường L, khóm A, phường B, thành phố C, tỉnh Cà Mau..

- Người kháng cáo: Bị đơn là anh Trần Quốc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Vào năm 2012, Đại lý N có ký hợp đồng mua bán thức ăn nuôi tôm với anh Trần Quốc T, hợp đồng chỉ thỏa thuận bằng miệng, không lập thành văn bản. Sau thời gian mua bán đến ngày 07/5/2016 giữa Đại lý N và anh Trần Quốc T có lập hợp đồng mua bán với nhau. Sau thời gian thực hiện hợp đồng, để đảm bảo việc thu hồi nợ giữa Đại lý N với anh Trần Quốc T có thỏa thuận lập hợp đồng ủy quyền về việc anh T cho Đại lý N mượn 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thực hiện các hợp đồng tín dụng, hợp đồng được Văn phòng công chứng Đất Mũi chứng nhận ngày 19/12/2016. Đến ngày 04/01/2017 giữa Đại lý N và anh T có đối chiếu công nợ với nhau, anh T thừa nhận nợ Đại lý N số tiền là 4.679.031.750 đồng, anh T có ký giấy xác nhận công nợ và cam kết trả nợ, nhưng chỉ thanh toán 81.000.000 đồng thì ngưng. Nay Đại lý N yêu cầu anh Trần Quốc T phải thanh toán cho Đại lý N số tiền là 4.598.031.000 đồng.

Bị đơn Trần Quốc T trình bày: Anh thừa nhận ngày 04/01/2017 giữa anh và Đại lý N có đối chiếu công nợ và số nợ mà anh còn nợ Đại lý N là 4.679.031.750 đồng nhưng anh có thanh toán một phần còn nợ lại là 4.598.031.000 đồng.

Tuy nhiên anh cho rằng giữa Đại lý N và anh có thỏa thuận, Đại lý N sẽ tiếp tục hỗ trợ cho anh nuôi tôm công nghiệp. Đại lý N đầu tư thức ăn, thuốc, men vi sinh trọn gói đến khi anh thu hoạch tôm thì số tiền lời anh sẽ thanh toán nợ cho Đại lý Như Ý. Anh T có ủy quyền giao cho Đại lý N 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do anh đứng tên để Đại lý N đầu tư cho anh nuôi tôm theo thỏa thuận. Nay anh chỉ đồng ý trả cho Đại lý N số tiền nêu trên, nếu Đại lý N đồng ý thực hiện theo hợp đồng mua bán ngày 04/01/2017 giữa anh T với Đại lý N.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 13 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Đại lý thuốc thú y, thủy sản, phân bón, thức ăn tôm N. Buộc anh Trần Quốc T phải có nghĩa vụ trả cho Đại lý thuốc thú y, thủy sản, phân bón, thức ăn tôm N số tiền 4.598.031.000 đồng

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Đại lý N về việc yêu cầu Tòa án ra quyết định về việc Cơ quan Thi hành án phát mãi tài sản của anh Trần Quốc T đã ủy quyền là 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thanh toán nợ.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất do chậm trả, án phí và quyền kháng cáo của đương sự. Ngày 05 tháng 02 năm 2018 bị đơn là anh Trần Quốc T có đơn kháng cáo yêu cầu sửa án sơ thẩm lý do nguyên đơn không thực hiện đúng hợp đồng cam kết trả nợ trước đây nên anh không đồng ý trả nợ.

Tại phiên tòa phúc thẩm anh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Anh Trần Quốc T kháng cáo không đồng ý thanh toán cho Đại lý N số tiền 4.598.031.000 đồng với lý do Đại lý N không thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết là tiếp tục hỗ trợ, cung cấp thức ăn cho anh để tiếp tục nuôi tôm công nghiệp và đến khi thu hoạch có lãi sẽ thanh toán. Xét thấy về khoản nợ còn phải thanh toán tại phiên tòa phúc thẩm đôi bên vẫn thống nhất là 4.598.031.000 đồng, do khoản nợ được đôi bên thừa nhận nên không đề cập xem xét. Như vậy phạm vi kháng cáo anh T cho rằng do Đại lý N không tiếp tục đầu tư nên anh không có trách nhiệm thanh toán; xem xét hợp đồng mua bán được hai bên ký kết vào ngày 07/5/2016 không thể hiện rõ nội dung là nếu Đại lý N không tiếp tục đầu tư thức ăn, thuốc thú y, thủy sản, phân bón, thức ăn tôm để anh T tiếp tục nuôi tôm thì anh T có quyền không thanh toán và việc anh đặt ra là khi anh tiếp tục nuôi và thu hoạch tôm có lãi thì sẽ thanh toán tiền cho Đại lý N.Thực tế việc tiếp tục đầu tư là không hiệu quả và khoản nợ khó thanh toán là khá lớn, do vậy việc Đại lý không tiếp tục đầu tư là có căn cứ. Đồng thời, tại bản cam kết trả nợ anh T ký tên cam kết nhưng chưa thanh toán, do đó không có cơ sở cho rằng Đại lý N vi phạm hợp đồng.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn không có chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi là phù hợp.

[3] Đối với các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất anh T và Đại lý N có thỏa thuận ủy quyền để thực hiện các hội đồng tín dụng, hợp đồng được công chứng của cơ quan có thẩm quyền. Nguyên và bị đơn không yêu cầu và cấp sơ thẩm không xem xét nội dung này, các đương sự không kháng cáo nên cấp phúc thẩm không đề cập.

[4] Án phí dân sự phúc thẩm ông T phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Quốc T. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 03/2018/DS-ST ngày 13 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Đại lý thuốc thú y, thủy sản, phân bón, thức ăn tôm N. Buộc anh Trần Quốc T phải có nghĩa vụ trả cho Đại lý thuốc thú y, thủy sản, phân bón, thức ăn tôm N số tiền 4.598.031.000 đồng (Bốn tỷ, năm trăm chín mươi tám triệu, không trăm ba mươi mốt nghìn, không trăm đồng). Đình chỉ yêu cầu của Đại lý thuốc thú y, thủy sản, phân bón, thức ăn tôm N về việc yêu cầu Tòa án ra quyết định để Cơ quan Thi hành án phát mãi tài sản của anh Trần Quốc T đã ủy quyền cho anh Văn Thanh H để thu hồi nợ.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Đại lý thuốc thú y, thủy sản, phân bón, thức ăn tôm N không phải chịu, ngày 16/11/2017 chị Thúy là người đại diện theo pháp luật của Đại lý N có nộp tiền tạm ứng án phí số tiền 56.440.000 đồng, biên lai số 0009323 được nhận lại tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi. Anh Trần Quốc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 112.598.031 đồng (Một trăm mười hai triệu, năm trăm chín mươi tám nghìn, không trăm ba mươi mốt đồng) (Chưa nộp).

Án phí dân sự phúc thẩm: Anh Trần Quốc T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Ngày 05/02/2018 anh T đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0009491 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi được chuyển thu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2018/DS-PT ngày 09/05/2018 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:90/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về