Bản án 90/2019/HSST ngày 02/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 90/2019/HSST NGÀY 02/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2019/HSST ngày 30 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 03 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Ngọc H (tên gọi khác: Ngọc), sinh năm 1986, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Phường 5 Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn N và con bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1968; có chồng tên Bạch Văn H, sinh năm 1990 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Không có; bị tạm giữ từ ngày 02/11/2017 đến ngày 11/11/2017 được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ, bị bắt truy nã ngày 04/10/2018, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng

1. Anh Trần Anh K, có mặt

2. Anh Đặng Quốc A, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H sử dụng ma túy từ năm 2013, loại ma túy sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine), H quen biết Trần Anh K, Đặng Quốc A do cùng làm nhân viên tại quán massage Vạn An Bình địa chỉ phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Khoảng 10 giờ ngày 02/11/2017, H đón xe từ phòng trọ địa chỉ 4C/26 khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đến chợ Hòa Hưng thuộc Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh gặp người tên Bảo (không rõ lai lịch) mua 1.000.000 đồng ma túy, Bảo đưa H một bịch nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, H mang về phòng trọ phân nhỏ thành 9 liều để trong 9 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu. H sử dụng hết 03 liều, đến khoảng 11 giờ cùng ngày Quốc A và K đến phòng ở trọ của H chơi, A mua của H 01 liều ma túy giá 200.000 đồng (K, A mỗi người bỏ ra 100.000 đồng) và sử dụng ngay tại phòng trọ của H, sau đó A đi làm K ở lại phòng cùng H, đến 18 giờ cùng ngày H bán cho người tên Tý (không rõ nhân thân) 01 liều ma túy giá 300.000 đồng, A sau khi đi làm về tiếp tục đến phòng của H chơi. Vào lúc 19 giờ 30 phút cùng ngày Công an phường An Bình, thị xã Dĩ An kiểm tra hành chính phòng ở trọ của H, lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang đối với H.

Vật chứng thu giữ: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 04 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng.

Quá trình điều tra bị cáo H khai nhận đã bán ma túy cho Trần Anh K hai lần, mỗi lần một liều giá 200.000 đồng vào ngày 25/10/2017 và 28/10/2017. Bán cho Đặng Quốc A hai lần mỗi lần một liều giá 200.000 đồng vào ngày 24/10/2017 và 02/11/2017, các lần bán tại phòng ở trọ của H.

Bản kết luận giám định số 511/GĐ-PC54 ngày 07/11/2017 của Phòng kỹ thuật Hình sự công an tỉnh Bình Dương kết luận tinh thể màu trắng có trong 04 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu thu giữ của H có trọng lượng 0,5457 gam loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 60/QĐ-KSĐT ngày 30 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo H từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 04 đoạn ống hút nhựa hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng.

Bị cáo H không tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án bị cáo H nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án để sớm về gia đình lo cho 02 người con còn nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá hình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H sử dụng ma túy, bị cáo mua ma túy về phân nhỏ để sử dụng và bán cho Trần Anh K, Trần Quốc A mỗi người 02 lần, mỗi lần 01 liều giá 200.000 đồng. Ma túy H bán cho K, A là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

a) ……

b) Phạm tội nhiều lần.

Như vậy, hành vi bị cáo H bán ma túy cho K và Quốc A đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại điểm b (phạm tội nhiều lần) thuộc khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 60/CT-VKS-DA ngày 30/01/2019 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo H cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên ngày hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ tội phạm: Khung hình phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H bị truy tố, xét xử là tội phạm rất nghiêm trọng do có mức hình phạt đến 15 năm tù, bị cáo H là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo H thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự thú hành vi bán ma túy cho K và Quốc A. Tình tiết giảm nhẹ trên được quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Về nhân thân: Bị cáo H không có nghề nghiệp ổn định, bị cáo sử dụng ma túy trong thời gian dài

Xét, hành vi phạm tội của bị cáo H gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo H mức án tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tự cải tạo, rèn luyện bản thân sau này không vi phạm nữa. Bị cáo H có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt bị cáo H mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy, bộ sử dụng ma túy của bị cáo H. Vật chứng thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với Trần Anh K, Đặng Quốc A sử dụng ma túy, đã mua ma túy của H để sử dụng, người tên Bảo bán ma túy cho H. Công an thị xã Dĩ An đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng tiền đối với K và Quốc A, tiếp tục xác minh đối với Bảo là phù hợp.

[7] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương về nhân thân bị cáo H, việc xử lý vật chứng. Xét, quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận. Riêng mức hình phạt đối với bị cáo H có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo H mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H (tên gọi khác: Ngọc) phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2018, bị cáo được tính trừ thời gian tạm giữ từ ngày 02/11/2017 đến ngày 11/11/2017.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư đã được niêm phong có ma túy sau giám định là 0,3835 gam Methamphetamine; 01 bộ sử dụng ma túy. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/01/2019.

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 90/2019/HSST ngày 02/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:90/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về