Bản án 91/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 91/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 150/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 219/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Bị đơn: Anh Phan Bảo Q, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Ấp M (ấp 5), xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa, chị H và anh Q vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, nguyên đơn là chị Vũ Thị H trình bày:

Chị và bị đơn là anh Phan Bảo Q kết hôn vào ngày 16/5/2007. Anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, tỉnh Bình Phước. Hôn nhân của anh chị là do tự nguyện. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại ấp 5, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre. Trong thời gian chung sống anh chị thường bất đồng quan điểm do anh Q không lo làm ăn, bỏ về quê, không chăm lo cho vợ con. Chị và anh Q sống ly thân từ năm 2011 cho đến nay. Chị nhận thấy không thể kéo dài tình trạng hôn nhân thêm được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Q.

Chị và anh Q có hai người con chung là cháu Phan Vũ Quốc V1, sinh ngày 20/7/2006 và Phan Vũ Tường V2, sinh ngày 11/12/2011. Hiện cháu Quốc V1 được ông bà nội nuôi dưỡng, cháu Tường V2 được bà ngoại và mẹ nuôi dưỡng. Chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tường V2, chị giao cháu Quốc V1 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng. Chị và anh Q không phải cấp dưỡng cho con.

Chị và anh Q không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Do đường xa, chị bận công việc nên không có nhiều thời gian, không thể tham gia tố tụng tại Tòa án nên chị làm đơn đề nghị Tòa án xem xét giải quyết tạo điều kiện cho chị được vắng mặt trong thời gian tố tụng, đề nghị Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt chị. Chị không khiếu nại, thắc mắc gì.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã thông báo và tổ chức các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng anh Q đều vắng mặt không lý do và không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của chị H.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án:

Thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Chị H thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Q chưa thực hiện đúng quy định tại các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H. Chị H được ly hôn với anh Q.

- Về con chung: Giao cháu Phan Vũ Quốc V1, sinh ngày 20/7/2006 cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng đến lúc trưởng thành, chị H không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Q không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con. Giao cháu Phan Vũ Tường V2, sinh ngày 11/12/2011 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng đến lúc trưởng thành, ghi nhận chị H không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị H, anh Q được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh chị thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Tài sản chung, nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn chị Vũ Thị H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre giải quyết về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn anh Phan Bảo Q. Anh Q cư trú tại ấp M (ấp 5), xã P, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Chị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Anh Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Vì vậy, Căn cứ theo quy định tại các khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh Q.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Phan Bảo Q tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 16 tháng 5 năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, tỉnh Bình Phước nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Tuy nhiên, theo chị H trình bày, trong quá trình chung sống, chị và anh Q phát sinh mâu thuẫn nhưng không giải quyết được. Từ năm 2011 cho đến nay chị và anh Q không chung sống với nhau. Hiện chị không thể tiếp tục hôn nhân với anh Q nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ do chị H giao nộp, tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Q vắng mặt, không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu của chị H.

Xét thấy, giữa chị H và anh Q không còn tình nghĩa vợ chồng vì không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình. Bên cạnh đó, anh chị đã không chung sống với nhau trong thời gian dài. Từ đó có đủ cơ sở khẳng định hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H để giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Q.

[3] Về con chung: Theo hồ sơ vụ án và lời khai của chị H, chị H và anh Q có 02 người con chung cháu Phan Vũ Quốc V1, sinh ngày 20/7/2006 và Phan Vũ Tường V2, sinh ngày 11/12/2011. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tường V2, chị giao cháu Quốc V1 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng. Về phía anh Q thì không có ý kiến phản đối với lời trình bày cũng như yêu cầu này.

Hội đồng xét xử xét thấy, các cháu Quốc V1 và Tường V2 là con chung của chị H và anh Q. Cháu Quốc V1 hiện đang sống với ông bà nội và cha, cháu Tường V2 hiện đang sống với mẹ. Cháu Quốc V1 có nguyện vọng được tiếp tục sống với cha, cháu Tường V2 có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của trẻ, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu Quốc V1 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Tường V2 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về việc cấp dưỡng cho con: Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 và khoản 1 Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình thì chị H có quyền yêu cầu anh Q thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Tường V2, anh Q có quyền yêu cầu chị H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Quốc V1. Tuy nhiên, do chị H và anh Q đều không yêu cầu về việc cấp dưỡng cho nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H trình bày chị và anh Q không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với anh Q thì vắng mặt, không có ý kiến. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy lời đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm là phù hợp nên được chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147, các khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Vũ Thị H. Chị Vũ Thị H được ly hôn với anh Phan Bảo Q.

2. Về con chung: Giao cháu Phan Vũ Quốc V1, sinh ngày 20/7/2006 cho anh Phan Bảo Q trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Phan Vũ Tường V2, sinh ngày 11/12/2011 cho chị Vũ Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Vũ Thị H và anh Phan Bảo Q không phải cấp dưỡng cho con.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Vũ Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tam ứng phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002247 ngày 02 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, các đương sự được quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:91/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về