Bản án 92/2018/HNGĐ-ST ngày 11/12/2018 về yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 92/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/12/2018 VỀ YÊU CẦU LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 12 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 329/2018/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2018 về việc: “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/11/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 85/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1981; Địa chỉ: Thôn 01, xã An P, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phan Quốc Đông P, sinh năm 1981; Địa chỉ: 274/11/9 đường Lê Duẩn, tổ 7, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14 tháng 5 năm 2018, quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Phan Quốc Đông P tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, thành phố P, tỉnh Gia Lai vào ngày 12/12/2012. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do cả hai có lối sống và suy nghĩ hoàn toàn trái ngược nhau, bất đồng với nhau về mọi thứ. Chị cũng đã nhiều lần khuyên răn nhưng không có kết quả, chị và anh P đã ly thân từ đầu năm 2018. Hiện chị không còn tình cảm với anh P nữa nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với anh Phan Quốc Đông P.

Về con chung: Chị và anh Phan Quốc Đông P có 01 con chung là cháu Phan Hoàng N, sinh ngày 29/8/2013. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi con chung và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh P không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về nợ chung: Chị và anh P không có nợ chung.

Đối với bị đơn anh Phan Quốc Đông P:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục để triệu tập hợp lệ đối với anh Phan Quốc Đông P. Tuy nhiên, anh P không đến Tòa án tham gia tố tụng không có lời khai tại hồ sơ và tại phiên tòa;

Ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Từ khi thụ lý vụ án đến nay Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng.

Về tuân theo pháp luật của Thư ký phiên tòa: Đảm bảo theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng:

Đối với nguyên đơn đã chấp hành theo quy định của pháp luật tại các Điều 70, 71, Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn không đến Tòa án để tham gia tố tụng, không có bản tự khai, không tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa. Như vậy, bị đơn không chấp hành pháp luật tố tụng trong quá trình vụ án.

Căn cứ theo các tài liệu và chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm có: Đơn khởi kiện; Giấy chứng nhận kết hôn số 118 ngày 12/12/2012 (Bản chính); Giấy chứng minh nhân dân của chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Phan Quốc Đông P (bản sao); Giấy khai sinh của con Phan Hoàng N; Bản tự khai của chị Nguyễn Thị Thanh T; Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 31/7/2018; Các Biên bản về việc không tiến hành hòa giải được;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quyền khởi kiện và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Thanh T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn và giải quyết nuôi con với anh Phan Quốc Đông P theo quy định của pháp luật. Đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thanh T được làm theo quy định tại Điều 189 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được Tòa án thụ lý, xem xét; chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Phan Quốc Đông P đều cư trú tại thành phố Pleiku, nên Tòa án nhân dân thành phố Pleiku có thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc bị đơn vắng mặt: Quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, anh Phan Quốc Đông P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Phan Quốc Đông P chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Phú, thành phố P, tỉnh Gia Lai năm 2012 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh T: trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các thủ tục để chị T và anh P đến Tòa án tham gia hòa giải đoàn tụ nhưng anh P đều vắng mặt chứng tỏ P không quan tâm đến việc có cần tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân của vợ chồng hay không. Như vậy, đã có đủ cơ sở để nhận định rằng, tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Phan Quốc Đông P đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, quan hệ vợ chồng đã thực sự không thể hàn gắn được nữa, mục đích của hôn nhân là xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc không đạt được nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh Phan Quốc Đông P là có căn cứ, được chấp nhận.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Phan Quốc Đông P có 01 con chung là cháu Phan Hoàng N, sinh ngày 29/8/2013. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi con chung và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Yêu cầu nuôi con của chị Nguyễn Thị Thanh T là phù hợp bởi anh P không thể hiện ý kiến về việc nuôi con, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, giao cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Phan Hoàng N cho đến khi cháu N thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Thanh T không yêu cầu anh Phan Quốc Đông P cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Phan Quốc Đông P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 25, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng : Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thanh T.

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn anh Phan Quốc Đông P.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là cháu Phan Hoàng N, sinh ngày 29/8/2013 cho đến khi con thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Chị Nguyễn Thị Thanh T không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc quyết định thay đổi mức cấp dưỡng.

- Về nợ chung và nghĩa vụ chung: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Phan Quốc Đông P không có nợ chung và nghĩa vụ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003566 ngày 18/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai; chị Nguyễn Thị Thanh T đã nộp đủ.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2018/HNGĐ-ST ngày 11/12/2018 về yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:92/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về