Bản án 92/2018/HS-ST ngày 19/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 92/2018/HS-ST NGÀY 19/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2018/TLHS - ST ngày 23/5/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2018/QĐXXST - HS, ngày 04 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo sau đây:

1. Họ và tên: Cà Văn Th; sinh năm: 1991; Nơi cư trú: Bản NH, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; Chức vụ Đảng phái: Không; Con ông Cà Văn K - SN: 1961 và bà Cà Thị H(đã chết) ; Vợ: Lò Thị Ch1- SN 1994 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2014; Tiền án: Ngày 19/8/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xử phạt 28 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; tiền sự: không; Bị bắt tạm, tạm giữ từ ngày 05/02/2018 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lò Văn D; sinh năm: 1991; Nơi cư trú: bản N, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; Chức vụ Đảng phái: Không; Con ông Lò Văn Th - SN: 1959 và bà Lò Thị H - SN: 1960; Vợ: Lò Thị Ng - SN: 1997, có 02 con lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự : không; bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 05/02/2018 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

3.Họ và tên: Lường Văn H; sinh năm: 1989; Nơi cư trú: bản NK, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Thái Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; Chức vụ Đảng phái: Không; Con ông Lường Văn K - SN: 1970 và bà Lò Thị Ch (đã chết); Vợ: Quàng Thị N - SN: 1991, có 01 con sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: không; Bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày 05/02/2018 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 30 phút ngày 04/02/2018 Tổ công tác Công an huyện và Ban Công an xã NT, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản NK, xã NT huyện Sông Mã, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lường Văn H, Cà Văn Th, Lò Văn D về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ được trong người Lò Văn Th 01 gói Nilon bên trong có 20 viên nén màu hồng nghi là hồng phiến và 01 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là Heroine, ngoài ra thu giữ 01 chiếc xe mô tô của Cà Văn Th và 01 điện thoại di động của Lò Văn D.

Quá trình điều tra, tại phiên tòa các bị cáo khai: Ngày 04/02/2018, Cà Văn Th lấy xe máy của ông Cà Văn K (bố đẻ) điều khiển đến nhà Lò Văn D1 (em trai ruột) chơi, tại nhà D1 gặp Lò Văn D, Lường Văn H là bạn với nhau, trong lúc nói chuyện Cà Văn Th có rủ D và H góp tiền đi tìm mua ma túy cùng sử dụng, D, H đồng ý thì D điều khiển xe máy về nhà cất, còn H và Th đến quán của ông Đoàn Văn Th1 ở bản N để cắt tóc, đồng thời chờ D đến. Trong lúc Th đang cắt tóc thì D vừa đến, sau đó D lấy dây truyền bằng bạc cầm cố lấy 200.000 đồng với ông Đoàn Văn Th1, Th có 800.000 đồng sau đó D điều khiển xe chở Th và H đến bản NS, xã NT, vào nhà một người dân tộc Mông tên là Ch, D trực tiếp mua được 01 viên hồng phiến và 01 gói Heroine giá 200.000 đồng, cả 3 người cùng ra lán nương của ông Ch sử dụng hết. Tiếp đó Th đưa D 800.000 đồng mua được 21 viên hồng phiến và 01 gói Heroine của người đàn ông tên Ch và đưa toàn bộ số ma túy cho Th cầm, D tiếp tục điều khiển xe chở Th và H đi về, được khoảng 01 km thì D cho Th và H đi bộ,còn D điều khiển xe đi trước để thăm dò Công an.

Đến nhà khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày D gọi điện bảo H đón D, Th đến nhà H để sử dụng ma túy, đến nơi Th bỏ ra 01 viên Hồng phiến, một ít Heroine trộn lẫn cùng nhau sử dụng, sau khi sử dụng xong Lò Văn D đã nhắn tin báo cho Trưởng Công an xã NT, huyện Sông Mã biết về hành vi vừa sử dụng ma túy, việc Th cất giấu số ma túy còn lại và bị bắt.

Ngày 06/02/2018 tại Phòng kỹ Thật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã thành cân tịnh, xác định khối lượng vật chứng, trích mẫu giám định, kết quả cân tịnh số : 20 viên nén màu hồng nghi là hồng phiến thu giữ của Cà Văn Th có khối lượng là 2,05 gam, trích lấy 0,5 viên có khối lượng 0,53 gam làm mẫu giám định ký hiệu T1, vật chứng còn lại 15 viên có khối lượng 1,52 gam ký hiệu T; cân số bột liên kết màu trắng nghi Heroine có khối lượng 0,92 gam, trích 0,10 gam làm mẫu giám định ký hiệu T2 , còn lại 0,82 gam ký hiệu T3

Kết luận giám định số 314/KLMT ngày 12/02/2018 của Phòng kỹ Thật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là chất ma túy; loại chất Heroine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,10 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy, loại chất Methamphetamin, khối lượng của mẫu giám định là 0,53 gam Methamphetamine. Như vậy khối lượng chất ma túy Heroine là 0,92 gam và khối lượng loại chất Methamphetaminelà 2,05 gam" . Tổng khối lượng cả hai chất hai là 2,97 gam.

Cáo trạng số: 60/KSĐT – MT, ngày 21/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố các bị cáo Cà Văn Th, Lò Văn D, Lường Văn H ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với chiếc xe mô tô thu giữ của bị cáo Cà Văn Th. Quá trình điều tra là xe của ông Cà Văn K (bố đẻ Th), ông K không được biết Th mang đi, cơ quan điều tra đã trả lại cho ông K.

- Đối với Đoàn Văn Th1 cho D cắm dây truyền bạc lấy 200.000 đồng, nhưng không biết mục đích của D, cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý.

Về nguồn gốc chất ma túy, các bị cáo khai mua với người đàn ông dân tộc Mông tên Ch ở bản NS, xã NT, huyện Sông Mã. Tại bản NS có một người tên Hờ A Ch (tên gọi khác Hờ Khua Ch), cơ quan điều tra triệu tập nhiều lần để làm việc, nhưng Ch không đến, hiện nay không có mặt tại địa phương, gia đình cũng không rõ đối tượng đi đâu, cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ xử lý ở vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Cà Văn Th, Lò Văn D, Lường Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy :

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Cà Văn Th từ 36 đến 40 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s, t khoản 1 điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử Phạt : Lò Văn D từ 20 đến 26 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 điều 51 Điều 38 Bộluật hình sự: Xử Phạt: Lường Văn  H từ 20 đến 26 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo

Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khỏan 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 1,52 gam Methamphetamine và 0,82 gam Heroine; 02 mảnh Nilon màu trắng không rõ hình dạng và 01 mảnh nilon màu hồng không rõ hình dạng; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Các bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì. Đều đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt phần nào cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trang tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi các bị cáo thể hiện qua các chứng cứ sau: Ngày 04/02/2018 các bị cáo Th, H, D thừa nhận đã có hành vi cùng nhau đến bản NS, xã NT mua ma túy để cùng sử dụng, D trực tiếp liên hệ mua được 01 gói Heroine 01 viên hồng phiến giá 200.000 đồng, cả ba người ra lán ngô nhà ông Ch sử dụng hết bằng hình thức hít vào cơ thể, tiếp đó Th đưa cho D 800.000đ mua được 21 viên hồng phiến và 01 cục Heroine. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày D, Th cùng nhau đến nhà Lường Văn H tụ tập để sử dụng ma túy, sử dụng xong thì D nhắn tin trình báo hành vi với Ban Công an xã và bắt quả tang, Th toàn bộ số vật chứng còn lại trong người Cà Văn Th.

Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên là tự nguyện, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 21 giờ 45 phút ngày 04/02/2018, tại bản NK, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, các bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã; phù hợp biên bản mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng. 

Kết luận giám định vật chứng số: 314/KLMT ngày 12/02/2018 của Phòng kỹ Thật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là chất ma túy; loại chất Heroine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,10 gam; Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine; khối lượng của mẫu giám định là 0,53 gam. Tổng khối lượng chất ma túy loại Heroine là 0,92 gam; khối lượng chất ma túy loại chất Methamphetamin là 2,05 gam " cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, với các chứng cứ nêu trên đủ căn cứ kết luận các bị cáo Cà Văn Th, Lò Văn D, Lường Văn H đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự có mức hình phạt từ 01 đến 05 năm tù. Quan điểm phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa và điều luật luật viện dẫn áp dụng đối với các bị cáo là có căn cứ đúng các quy định pháp luật.

 [3]. Về hành vi vai trò, tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vụ án có đồng phạm. Trong đó bị cáo Lò Văn Th là chủ mưu, khởi xướng có số tiền bỏ ra mua ma túy là 800.000 đồng nhân thân xấu nên mức án phải cao hơn. Đối với bị cáo Lò Văn D sau khi tiếp nhận ý trí đã cầm cố dây truyền lấy có 200.000 đồng thực hiện vai trò giúp sức rất tích cực, bị cáo H tuy không có tiền, nhưng sau khi tiếp nhận ý trí cũng thực hiện với vai trò tích cực nhằm được hưởng lợi trong việc sử dụng chất ma túy nên mức hình phạt cũng phải tương xứng.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, vai trò của từng bị cáo. [4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Cà Văn Th có 01 tiền án, chưa được xóa án lại tái phạm là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lò Văn D, Lường Văn H không có tình tiết tăng nặng

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự; Lò Văn D được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm t khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự "tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm" (BL 6,7)

 [5]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn không có khả năng thi hành, không áp dụng với bị cáo là phù hợp.

 [6]. Đối với chiếc xe mô tô tài sản hợp pháp của Cà Văn K, cơ quan điều điều tra đã trả lại; ông Đoàn Văn Th1 cho D cầm cố dây truyền bạc lấy 200.000 đồng, nhưng không biết mục đích của D. Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý với họ là phù hợp.

 [7]. Về nguồn gốc chất ma túy, các bị cáo khai mua với người đàn ông dân tộc Mông tên Ch ở bản NS, xã NT, huyện Sông Mã. Quá trình điều tra tại bản NS có một người tên Hờ A Ch (tên gọi khác Hờ Khua Ch). Quá trình điều tra Ch không có mặt tại địa phương, nên không có căn cứ xác minh điều tra làm rõ để xử lý ở vụ án là đúng quy định pháp luật.

 [8] Về vật chứng của vụ án: Sau khi lấy mẫu giám định ma túy còn lại 1,52 gam Methamphetamine và 0,82 gam Heroine; 02 mảnh Nilon màu trắng không rõ hình dạng và 01 mảnh nilon màu hồng không rõ hình dạng, là những vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; 01 chiếc điện thoại di động là vật các bị cáo dùng vào việc phạm tội cần tịch thu Sung công Nhà nước.

 [9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sư sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1 . Tuyên bố các bị cáo Cà Văn Th, Lò Văn D, Lường Văn H. Phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo: Cà Văn Th 36 tháng tù. Thời hạn tính từ ngày 05/02/2018.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo: Lò Văn D 22 tháng tù. Thời hạn tính từ ngày 05/02/2018.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo: Lường Văn H 22 tháng tù. Thời hạn tính từ ngày 05/02/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khỏan 1 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệuVIETTEL màu đỏ đã qua sử dụng có số imei1: 3540916490224; số imei2: 354091064950232.

- Tịch thu tiêu hủy T = 1,52 gam nghi hồng phiến; T3= 0,82 gam nghi là He roine; 03 mảnh Nilon không rõ hình dạng (trong đó 02 mảnh màu trắng, 01 mảnh màu hồng) ở trong một phong bì thư niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ: Cà Văn Th, SN: 1991 ở bản NH, xã NT, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.

Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản, ngày 23/4/2018 Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La (BL 232).

3 . Về án phí: Áp dụng Điều 135,136 BLTTHS; các điều 21, 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án, các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo 200.000 đồng.

4 . Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2018/HS-ST ngày 19/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:92/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về