Bản án 93/2018/HSST ngày 31/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 93/2018/HSST NGÀY 31/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31tháng 7 năm 2018. tại Hội trường Tổ dân phố số 6 , Phường 4, thành phố Đ, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2018/HSST ngày 20 tháng 6 năm 2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/QĐ-HSST ngày 19 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: DIỆP MỸ L, sinh ngày 08 tháng 6 năm 1981. Nơi sinh: Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: 2B - N, Phường 1, thành phố Đ, Lâm Đồng. Chỗ ở: 2B - N, Phường 1, thành phố Đ, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Nội trợ. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Con ông: Diệp Năng L, sinh năm 1944. Hiện ở tại: 2B - N, Phường 1, thành phố Đ, Lâm Đồng; Con bà: Trần Thị L (chết). Bị cáo chưa có chồng, con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt, tạm giam ngày 18/4/2018. Trả tự do ngày 09/7/2018. Hiện đang tại ngoại tại số 2B - N, Phường 1, thành phố Đ, Lâm Đồng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Diệp Mỹ L sử dụng chất ma túy (Methamphetamine) từ năm 2017, Trong một lần đi Thành phố Hồ Chí Minh, Linh có quen với một người phụ nữ tên N (không rõ lai lịch, địa chỉ), N cho L số điện thoại của một người đàn ông bán ma túy. Ngày 06/4/2018, L liên lạc qua số điện thoại được N cho để hỏi mua ma túy thì gặp một người đàn ông, người này đồng ý bán ma túy cho L và hẹn khi nào lên thành phố Đ, Lâm Đồng, ông ta sẽ gọi điện thoại cho L. Đến khoảng 04 giờ ngày 16/4/2018, Linh nhận được điện thoại của người đàn ông bán ma túy, người này hẹn L xuống khu vực Đèo P, Phường 3, thành phố Đ, Lâm Đồng để thực hiện việc mua, bán ma túy thì L đồng ý. Sau đó Linh đi một mình xuống điểm hẹn, tại đây L gặp một người đàn ông và một phụ nữ (không rõ lai lịch, địa chỉ). Sau khi giao số tiền 8.000.000 đồng cho hai người này thì được họ bán cho một hộp giấy, bên trong có chứa ma túy đá. Sau khi mua bán, L đem hộp giấy có chứa ma túy về nhà của mình cất giấu với mục đích để sử dụng dần. Đến khoảng 09 giờ ngày 18/4 2018, Công an thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang L đang cất giữ tang vật gồm: Một gói nilon bên trong chứa chứa chất ở dạng tinh thể màu trắng, Diệp Mỹ L khai nhận đó là số ma túy đá L mua để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 633/GĐ-PC54 ngày 19/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu tinh thể đựng trong 01 gói nilon được niêm phong gởi giám định có khối lượng 4,9581 gam là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Diệp Mỹ L không thắc mắc hay khiếu nại gì đối với Kết luận của Cơ quan giám định nêu trên.

Tại Cáo trạng số 90/CT-VKS ngày 20/6/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng truy tố Diệp Mỹ L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Diệp Mỹ L khai nhận bị cáo là người nghiện ma túy, vào ngày 16/4/2018 bị cáo đã có hành vi mua số ma túy là Methamphetamine của một đối tượng không biết tên, không rõ lai lịch tại thành phố Đ, sau đó tàng trữ để sử dụng và đến ngày 18/4/2018 thì bị Công an thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra, phát hiện bắt giữ, thu giữ số ma túy trên với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Diệp Mỹ L đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo tàng trữ 4,9581 gam Methamphetamine, là chất ma túy, để sử dụng, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng địểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Diệp Mỹ L từ 03 đến 04 năm tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo qui định của pháp luật. Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, một mình bị cáo phải nuôi bố trên 70 tuổi, bị bại liệt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Diệp Mỹ L:

Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy, trong đó có Methamphetamine, một loại ma túy tổng hợp là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo mua từ người khác và tàng trữ 4,9581 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Biên bản phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ

kết luận bị cáo Diệp Mỹ L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng 4,9581 gam Methamphetamine. Không thuộc tình tiết định khung tăng nặng nào được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo qui định tại điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình, phải nuôi bố già trên 70 tuổi đang bị bệnh bại liệt. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt qui định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Về áp dụng hình phạt bổ sung:

Xét hiện không xác định được bị cáo có nguồn thu nhập gì từ việc Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng :

Các loại vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có:

+ Hai phong bì đã được niêm phong, trong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định; một bình có gắn ống thủy tinh là dụng cụ để sử dụng ma túy, xét không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy;

+ Một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S7 (đã qua sử dụng), xét có liên quan đến hành vi liên lạc để mua bán ma túy, cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước;

+ Một chứng minh nhân dân mang tên Diệp Mỹ L, là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Diệp Mỹ L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] . Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Diệp Mỹ L 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian tạm giam từ ngày 18/4/2018 đến ngày 09/7/2018 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[3]. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu để tiêu hủy: Hai phong bì đã niêm phong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định và 01 bình có gắn ống thủy tinh, là dụng cụ để sử dụng ma túy.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S7, vỏ màu hồng, có gắn ốp lưng bằng da màu nâu (đã qua sử dụng), có gắn hai sim số 0977179149 và 0918084845;

+ Trả lại cho bị cáo 01 Chứng minh nhân dân mang tên Diệp Mỹ L.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/6/2018 giữa Công an thành phố và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ).

[4] . Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] . Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2018/HSST ngày 31/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về