Bản án 93/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 93/2019/HS-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 83/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 115/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Thị L (Tên gọi khác: Không); sinh ngày: 04 tháng 5 năm 1992 tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 2, xã DT, huyện DC, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn B và con bà: Đặng Thị O; chồng, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 04/4/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 30 (ba mươi) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (bản án số 40/2017/HSST), chấp hành xong hình phạt vào ngày 12/01/2019; bị tạm giữ, tạm giam: Từ ngày 25/3/2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến:

Chị Trần Thị L, sinh năm 1995. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Phạm Thị L nghiện ma túy. Để có ma túy sử dụng, thông qua một người bạn, Lý có số điện thoại của Th (ở xã Diễn Hồng), vào lúc 19h30 phút, ngày 25/3/2019, L điện thoại cho Th hỏi “Anh có hàng không, để cho em 3.500.000đồng”, Th trả lời “Có” và hỏi L ở đâu để đưa đến. L hẹn Th đến ngã tư đường liên thôn xóm 2, xã DT, huyện DC. Đến khoảng 19h50 phút, cùng ngày Th điện thoại nói L ra điểm hẹn lấy ma túy. L đến điểm hẹn đưa cho Th 3.500.000đồng (ba triệu, năm trăm ngàn đồng), Th đưa cho L 01 (một) gói ma túy đá. L cầm gói ma túy đá trên tay phải đi bộ về nhà. Lýđi được một đoạn thì bị tổ công tác Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 Bộ tư lệnh Cảnh sát biển, phối hợp với Công an huyện Diễn Châu, Đồn biên phòng Diễn Thành bắt quả tang, thu giữ 01 (một) gói nilong màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị L khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, vào lúc 19h50 phút ngày 25/3/2019, Phạm Thị L đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,62gam (ba phẩy sáu mươi hai gam) ma túy Methamphetamine, thì bị phát hiện và bắt quả tang.

- Về các vấn đề khác của vụ án:

Thủ tục giám định: Ngày 26/3/2019, Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 Bộ tư lệnh Cảnh sát biển tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng và Quyết định trưng cầu giám định đối với các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Thị L. Tại Kết luận giám định số 524/KL-PC09(MT) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Thị L gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 3,62gam (ba phẩy sáu mươi hai gam).

Xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì thư Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 - Cảnh sát biển được niêm phong đúng quy định, bên trong chứa vật chứng thu giữ của Phạm Thị L. 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh tím than đã qua sử dụng. Được chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Diễn Châu quản lý theo quy định.

- Bản cáo trạng số 90/CT-VKSDC ngày 12/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu truy tố bị cáo Phạm Thị L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Thị L từ 42-48 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì thư đã niêm phong, có chữ ký của các thành viên. Tịch thu, hóa giá, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh tím than đã qua sử dụng.

Bị cáo không tranh luận gì về tội danh. Lời nói sau cùng: Xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 Bộ tư lệnh Cảnh sát biển, Cơ quan điều tra Công an huyện Diễn Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị L khai nhận: Ngày 26/3/2019 bị cáo đã có hành vi cất giấu trái phép 01 (một) gói Methamphetamine có khối lượng 3,62gam (ba phẩy sáu mươi hai gam), bị Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 Bộ tư lệnh Cảnh sát biển bắt quả tang tại đường liên thôn (xóm 2, xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An). Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền, thống nhất quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức được Methamphetamine là chất gây nghiện nguy hiểm, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Phạm tội với lỗi cố ý. Điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Như vậy, hành vi cất giữ 3,62gam (ba phẩy sáu mươi hai gam) Methamphetamine của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái pháp chất ma túy” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu truy tố là đúng quy định pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây khó khăn cho Nhà nước trong việc kiểm soát các chất ma túy, góp phần tạo ra một lớp người nghiện, qua đó đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xét xử, nhưng không lấy đó làm bài học răn đe bản thân nên cần xử phạt với mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, và nhân thân bị cáo. Cách ly ra ngoài xã hội một thời gian dài, mới có đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, do đó cần áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, nên cần áp dụng điểm s khoản 1, điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng... Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì thư Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 2 – Bộ tư lệnh Cảnh sát biển bên trong chứa vật chứng thu giữ của Phạm Thị Lý không có giá trị sử dụng, tịch thu, tiêu hủy. 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc với người bán ma túy, nên cần tịch thu, hóa giá, sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Kiến nghị cơ quan điều tra làm rõ đối tượng tên Th bán ma túy cho bị cáo để xử lý theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Thị L 48 (bốn tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 25/3/2019). Về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì thư có vật chứng thu giữ của Phạm Thị L; tịch thu, hóa giá, sung vào ngân sách nhà nước 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel (Tình trạng vật chứng theo Phiếu nhập kho số 91 ngày 14/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Diễn Châu, Nghệ An).

Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo Phạm Thị L phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:93/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về