Bản án 93/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 93/2019/HS-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 87/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019 theo thủ tục rút gọn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Thân Thị N, sinh năm 1971 tại xã M, huyện V, tỉnh Bắc Giang; tên gọi khác: Không; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Rèn, xã M, huyện V, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo:Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Thân Văn L, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị N (đã chết); có chồng là Nguyễn Văn T, sinh năm 1971 và 03 con (lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 2002); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 70/2019/HSST ngày 07/5/2019, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng tính kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Đánh bạc”. Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/5/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang.(có mặt)

* Bị hại: Trung tâm Viễn thông thành phố B, tỉnh Bắc Giang Địa chỉ: Lô C4, đường L, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Ông Nguyễn Đức C –Phó Giám đốc Trung tâm Viễn thông thành phố B, tỉnh Bắc Giang.(vắng mặt)

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1971, địa chỉ: Thôn R, xã M, huyện V, tỉnh Bắc Giang. (vắng mặt)

2. Anh Trần Duy H sinh năm 1971, địa chỉ: Phố T,thị trấn B, Y, Bắc Giang. (vắng mặt)

* Người làm chứng:

1.Ông Phạm Văn C, sinh năm 1959, địa chỉ: Số nhà 36, ngõ 49, đường Đ, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. (vắng mặt)

2. Anh Vũ Thành T, sinh năm 1983, địa chỉ: Thôn C, huyện Đ, tỉnh Thái Bình. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do làm nghề thu mua phế liệu nên Thân Thị N biết được trong Trung tâm viễn thông thành phố B có địa chỉ ở lô C4, đường L, thành phố B có để nhiều cuộn dây cáp viễn thông đã qua sử dụng. Khoảng hơn 21 giờ ngày 17/5/2019, N điều khiển xe mô tô YAMAHA Sirius biển kiểm soát 98M1-6234 mang theo 01 kìm cộng lực, 01 viên đá mài, 01 con dao, 05 bao tải dứa từ nhà đi đến Trung tâm viễn thông thành phố B để trộm cắp tài sản. Khi đến nơi, N dựng xe gần khu vực Nhà nghỉ An Bình 2 trên đường G, phường X, thành phố B. N dấu kìm, dao, đá mài và bao dứa ở bụi cỏ ven đường. Sau khi quan sát xung quanh, N trèo qua tường bao phía sau, đi qua sân Tennis vào trong sân chính trước nhà làm việc của Trung tâm viễn thông thành phố B. Tại đây N nhìn thấy có nhiều đoạn dây cáp viễn thông đã qua sử dụng được cuộn tròn thành nhiều cuộn khác nhau. N dùng hai tay trộm cắp 01 một cuộn dây cáp lên vai phải rồi đi theo ngách nhỏ ra phía sau nhà làm việc vứt cuộn dây cáp qua tường bao ra ngoài vỉa hè đường Chu Danh Tề, phường X. Sau đó N quay lại tiếp tục trộm cắp 02 cuộn dây cáp khác, 01 cuộn vứt qua tường bao ra vỉa hè đường Chu Danh Tề, 01 cuộn vứt qua tường bao ra vỉa hè đường G, phường X. N đi theo lối cũ trèo ra ngoài, kéo 01 cuộn dây cáp đã vứt ra vỉa hè đường G về bụi cây ở khu đất trống gần đó. Khi N đang chuẩn bị dùng dụng cụ cắt nhỏ cuộn dây cáp thì bị anh Phạm Văn Cường là bảo vệ của Trung tâm viễn thông thành phố B phát hiện bắt giữ trình báo Công an phường X đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bao gồm: 03 cuộn dây cáp viễn thông đều thuộc loại 100x2x0,5; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu sơn đỏ bạc, biển kiểm soát 98M1-6234, có giá đỡ bằng sắt ở phía sau; 05 bao dứa đã qua sử dụng; 01 viên đá mài kích thước (20x5x2)cm; 01 con dao dài 27cm, 01 kìm cộng lực dài 37cm.

Ngày 18/5/2019, anh Nguyễn Đức C là đại diện theo ủy quyền của Trung tâm làm có đơn trình báo Công an thành phố B. Cùng ngày 18/5/2019, Cơ quan điều tra đã thu giữ dữ liệu camera giám sát tại Trung tâm viễn thông thành phố B trong đó có đoạn hình ảnh Thân Thị N trộm cắp tài sản.

Ngày 19/5/2019, Cơ quan điều tra đã kiểm tra trọng lượng 03 cuộn dây cáp viễn thông đã thu giữ, kết quả: Cuộn dây thứ nhất dài 36m trọng lượng 26,5kg; cuộn dây thứ hai dài 26m trọng lượng 20kg; cuộn dây thứ ba dài 48m trọng lượng 35kg. Tổng chiều dài 03 cuộn dây là 110m, tổng trọng lượng 03 cuộn dây là 81,5kg.

Tại Kết luận định giá tài sản số 62/KL- HĐĐG ngày 20/5/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận:

“- 01 cuộn dây cáp viễn thông loại 100x2x0,5, dài 26 mét có trọng lượng 20kg, đã qua sử dụng, có trị giá 45.000 đồng/1kg x20kg= 900.000 đồng (chín trăm nghìn đồng).

- 01 cuộn dây cáp viễn thông loại 100x2x0,5, dài 36 mét có trọng lượng 26,5kg, đã qua sử dụng, có trị giá 45.000 đồng/1kg x26.5kg= 1.192.500 đồng (một triệu một trăm chín mươi hai nghìn năm trăm đồng).

- 01 cuộn dây cáp viễn thông loại 100x2x0,5, dài 48 mét có trọng lượng 35kg, đã qua sử dụng, có trị giá 45.000 đồng/1kg x35kg = 1.575.000 đồng (một triệu năm trăm bẩy mươi năm nghìn đồng).” Tổng trị giá tài trộm cắp là: 3.667.500 đồng.

Ngày 30/5/2019, cơ quan điều tra đã trả lại cho Trung tâm viễn thông thành phố B 03 cuộn dây cáp nêu trên, đến nay đại diện theo ủy quyền của Trung tâm viễn thông thành phố B là ông Nguyễn Đức C không yêu cầu bồi thường dân sự.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu sơn đỏ bạc, biển kiểm soát 98M1-6234, quá trình điều tra xác định được thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Văn Toàn. Ngày 06/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã trả lại cho anh Toàn.

Theo Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 04/QĐ-VKS ngày 06 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Thân Thị N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa,:

Bị cáo Thân Thị N khai nhận Viện kiểm sát thành phố B truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 là đúng, không oan, bị cáo đề nghị được hưởng mức hình phạt nhất.

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của những người được triệu tập nhưng vắng mặt. Bị cáo không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

1. Tuyên bố bị cáo Thân Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 38; khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Thân Thị N từ 07 đến 9 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2019/HSST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho hai bản án từ 03 năm 07 tháng tù đến 03 năm 09 tháng tù, nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2018 đến ngày 04/9/2018 theo bản án số 70/2019/HSST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Thời gian tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam 18/5/2019.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106: Tịch thu tiêu hủy 05 bao dứa, 01 đá mài kích thước (20x5x2) cm; 01 dao dài 27cm; 01 kìm cộng lực dài 37cm 4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại,người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về tội danh:Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 18/5/2019, lời khai của bị cáo, bị hại, lời khai người làm chứng, kết luận định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 2 giờ ngày 18/5/23019 tại Trung tâm Viễn thông thành phố B có địa chỉ: Lô C4, đường L, thành phố B, tỉnh Bắc Giang bị cáo N có hành vi lén lút chiếm đoạt 03 cuộn dây cáp viễn thông của Trung tâm Viễn thông thành phố B gồm: Cuộn dây thứ nhất dài 36m trọng lượng 26,5kg; cuộn dây thứ hai dài 26m trọng lượng 20kg; cuộn dây thứ ba dài 48m trọng lượng 35kg. Tổng chiều dài 03 cuộn dây là 110m, tổng trọng lượng 03 cuộn dây là 81,5kg. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là: 3.667.500 đồng. Hành vi nêu trên trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo tội danh và Điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây dư luận xấu và hoang mang trong quần chúng nhân dân cũng như gây mất trật tự trị an xã hội. Do vậy cần phải phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho loại tội này.

[4] Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Tại bản án số 70/2019/HSST ngày 07/5/2019, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “ Đánh bạc” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học nay lại phạm tội. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục bị cáo thành công dân biết tuân thủ pháp luật. Do bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2019/HSST ngày 07/5/2019 của TAND thành phố B, tỉnh Bắc Giang nên cần áp dụng khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt của Bản án số 70/2019/HSST ngày 07/5/2019 của TAND thành phố B cùng với hình phạt của bản án này.

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có mẹ đẻ là người có công với cách mạng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét, áp dụng khi quyết định hình phạt.

[6] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về vật chứng của vụ án gồm: 01 bao dứa, 01đá mài kích thước (20x5x2) cm;

01 dao dài 27cm; 01 kìm cộng lực dài 37cm không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius màu sơn đỏ bạc, biển kiểm soát 98M1-6234,quá trình điều tra xác định thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Văn Toàn. Ngày 06/6/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã trả lại cho anh Toàn là phù hợp.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Cần tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Thân Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38; khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Thân Thị N 07 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2019/HSST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung cho hai bản án là 03 năm 07 tháng tù, nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2018 đến ngày 04/9/2018 theo bản án số 70/2019/HSST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Thời gian tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam 18/5/2019.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 05 bao dứa, 01 đá mài kích thước (20x5x2) cm; 01 dao dài 27cm; 01 kìm cộng lực dài 37cm.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:93/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về