Bản án 94/2017/HSPT ngày 01/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 94/2017/HSPT NGÀY 01/09/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Trong ngày 01 tháng 9 năm 2017, tại tr sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm v án hình sự th lý số 95/2017/HS-PT ngày 13 tháng 7 năm 2017, đối với bị cáo Lê Ngọc L. Do có kháng cáo của bị cáo, người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2017/HSST ngày 06/06/2017 của Toà án nhân dân huyện D, tỉnh Tây Ninh.

Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

Lê Ngọc L (Bảo), sinh năm 1976, tại Tây Ninh; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Số nhà 16 đường T, Khu phố 3, thị trấn D, huyện D, tỉnh B; nghề nghiệp: Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện D, tỉnh B; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Lê Văn Kvà bà Phạm Thị M, có vợ tên Lê Thị Hồng P và hai người con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: không.

Bị hại:

1. Anh Lê Anh N, sinh năm 1979 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của anh Lê Anh N có kháng cáo:

1.1 Ông Lê Công B, sinh năm 1950 (là cha anh N);

1.2 Bà Mai Thị Kiều T, sinh năm 1951 (là mẹ anh N);

1.3 Chị Trần Thị Ái L, sinh năm 1981 (là vợ anh N);

Cùng địa chỉ : Ấp T , xã T, huyện H, tỉnh Tây Ninh.

2. Anh Nguyễn Thanh T, sinh năm 1977 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp cho anh T có đơn kháng cáo:

2.1 Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1959 (là cha anh T);

2.2 Bà Trần Thị N, sinh năm 1959 (là mẹ anh T);

Cùng địa chỉ : Ấp N, xã B, huyện D, tỉnh Tây Ninh.

2.3 Chị Lê Thị Xuân N, sinh năm 1983; địa chỉ: Ấp P2, xã P, huyện D, tỉnh Tây Ninh (là vợ anh T).

Ngoài ra còn có bị đơn dân sự nhưng do không có kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 17-12-2016, sau khi đi uống rượu tại Thành phố T, Lê Ngọc L điều khiển xe ô tô loại xe bán tải biển số 61C-197.01 của Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện D, tỉnh B chở anh Phạm Xuân Hvà anh Doãn Quốc Thái H về huyện D, tỉnh B. Khi xe L điều khiển đến đoạn đường 790 thuộc ấp L, xã L, huyện D do kính cận của L đang đeo bị rơi, L đưa tay ch p lại thì xe bị lạc tay lái lấn sang trái sang làn đường ngược chiều tông vào xe mô tô biển số 70G1-133.87 do anh Lê Thanh N điều khiển chở anh Nguyễn Thanh T. Sau khi va chạm với xe của anh N và anh T thì xe ô tô mà L điều khiển tiếp t c chạy sang lề trái hướng đi và tông vào gốc cây bên lề đường rồi dừng lại. V tai nạn làm anh N và anh T tử vong tại chỗ, anh H và anh H bị xây xát ngoài da, chiếc xe ô tô biển số 61C-197.01 và chiếc xe mô tô biển số 70G1-133.87 bị hư hỏng nặng.

Kết luận giám định số 200/GTR.2016 ngày 23-12-2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận:

Mẫu máu của Nguyễn Thanh T không có nồng độ cồn trong máu. Mẫu máu của Lê Thanh N không có nồng độ cồn trong máu.

Mẫu máu của Lê Ngọc L có nồng độ cồn trong máu là 42mg/100ml máu.

Kết luận giám định số 189a/PY ngày 02-01-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Nguyễn Thanh T tử vong do đa chấn thương.

Kết luận giám định số 189b/PY ngày 02-01-2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Lê Thanh N tử vong do đa chấn thương nặng.

Kết luận định giá tài sản số 03/KLĐG-HĐĐG ngày 03-3-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố t ng hình sự huyện D kết luận chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA (loại Sirius) biển số 70G1-133.87 tại thời điểm ngày 17-12- 2016 bị hư hỏng, thiệt hại có giá trị là 14.480.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 04/ KLĐG-HĐĐG ngày 03/3/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố t ng hình sự huyện D kết luận chiếc xe ô tô nhãn hiệu MISUBISHI biển số 61C-197.01 tại thời điểm ngày 17-12-2016, thiệt hại có giá trị là 89.280.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D đã thu giữ và xử lý các vật chứng gồm: Trả lại cho Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện D, tỉnh B 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu MISUBISHI biển số 61C-197.01 và 10 mảnh nhựa vỡ màu vàng, màu đen, màu xám. Trả lại cho Lê Ngọc L 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA (loại Sirius) màu đỏ - đen, không có biển số, số khung CS5C630CY632127, số máy 5C63-632173, 01 phần chắn bùn sau xe mô tô có gắn biển số 70G1-133.87 và 07 mảnh nhựa võ màu đỏ, màu đen. Trả lại choh chị Trần Thị Ái L (vợ của anh Lê Thanh N) 01 mũ bảo hiểm màu xanh có chữ VILFA, 01 bao nilon màu vàng, bên trong bao đựng nhiều d ng c của thợ hồ, 01 ba lô màu xanh bên trong đựng mền, gối. Trả lại cho chị Lê Thị Xuân N (vợ của anh Nguyễn Thanh T) 01 mũ bảo hiểm màu bạc có chữ ASIA.

Các vật chứng hiện còn thu giữ gồm: 01 kính cận đã bị hỏng và 01 giấy phép lái xe hạng B2 của Lê Ngọc L.

Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của anh Lê Thanh N yêu cầu bồi thường tổng số tiền là 150.000.000 đồng gồm chi phí mai táng, tiền cấp dưỡng nuôi con của anh N và tiền để mua xe mô tô khác thay thế chiếc xe mô tô biển số 70G1-133.87 của anh N đã bị hư hỏng. Người đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Thanh T yêu cầu bồi thường tổng số tiền 150.000.000 đồng, gồm chi phí mai táng và tiền cấp dưỡng nuôi con của anh T. Trong quá trình điều tra, L đã bồi thường xong các khoản tiền nói trên theo yêu cầu. Sau khi nhận tiền bồi thường, người đại diện hợp pháp của anh N và anh T không yêu cầu bồi thường thêm khoản tiền nào khác và làm đơn bãi nại đối với Lê Ngọc L.

Ông Trần Đăng K đại diện cho Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện D, tỉnh B yêu cầu L sửa chữa lại chiếc xe ô tô biển số 61C-197.01 đã bị hư hỏng. L đã đồng ý theo yêu cầu của Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện D, tỉnh B. Ngoài Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện D, tỉnh B không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Hai anh Phạm Xuân H và Doãn Quốc Thái H chỉ bị thương nhẹ nên không yêu cầu L bồi thường.

Tại Bản án sơ thẩm số 15/2017/HSST ngày 06 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Tây Ninh: Áp d ng khoản 3 Điều 202; các điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội khóa XIII xử phạt bị cáo Lê Ngọc L 03 (ba) năm tù về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ"; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên các biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 16 tháng 6 năm 2017 Bị cáo Lê Ngọc L, người đại diện hợp pháp cho người bị hại anh Lê Thanh N đã chết có ông Lê Công B, bà Mai Kiều T, chị Trần Thị Ái L và người đại diện hợp pháp cho người bị hại anh Nguyễn Thanh T đã chết có ông Nguyễn Văn T, bà Trần Thị N, chị Lê Thị Xuân N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo và những người đại diện hợp pháp của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên tòa: Hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn, cha bị cáo bị bệnh nặng, vợ bị bệnh ung thư, bản thân bị cáo cũng bị suy tim nặng và cao huyết áp, hiện nay bị cáo là lao động chính còn phải nuôi con nhỏ, mẹ già yếu, nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

 [2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Ngọc L thừa nhận: Khoảng 18 giờ 30 phút sau khi sử d ng rượu, bia bị cáo điều khiển xe ô tô biển số 61C-197.01 của Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện D, tỉnh B đi từ Tây Ninh về B. Khi xe của bị cáo đang lưu thông trên đoạn Đường 790 đến địa phận ấp L, xã L, huyện D, tỉnh Tây Ninh, do mất tập trung vì bị rơi kính cận, nên xe ô tô mà bị cáo điều khiển đã đâm vào xe Mô tô biển số biển số 70G1-133.87 do anh Lê Thanh N điều khiển chở anh Nguyễn Thanh T đang lưu thông theo hướng ngược lại, hậu quả làm anh T và anh N tử vong tại chỗ. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" theo quy định tại khoản 3 Điều 202 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

 [3] Xét kháng cáo của bị cáo và những người đại diện hơp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo thì thấy rằng: Bị cáo L lái xe trong tình trạng có sử d ng rượu bia, lấn sang làn đường bên trái gây tai nạn giao thông làm chết hai người, gây thiệt hại về tài sản với tổng số tiền là 103.760.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại các điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; áp dụng điểm có lợi được quy định tại Nghị quyết số 144/2016QH13 ngày 29/6/2016 mà nay là Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 xử phạt bị cáo 3 năm tù là phù hợp và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình công tác bị cáo được tặng thưởng nhiều danh hiệu thi đua. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm các hồ sơ tài liệu xác nhận bản thân bị cáo bị suy tim, hở van tim hai lá, vợ bị cáo bị ung thư giai đoạn 3, cha bị cáo bị nhồi máu cơ tim, mẹ bị cáo già yếu và hai con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử áp d ng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng nên không đủ điều kiện cho hưởng án treo theo quy định của pháp luật.

 [4] Án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 23 Chương II của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

 [5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng khoản 3 Điều 202; các điểm b, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và những người đại diện hợp pháp của bị hại;

Sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo;

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc L 02 (hai) năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

2. Về án phí: bị cáo Lê Ngọc L và những người đại diện hợp pháp của bị hại không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bán phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2017/HSPT ngày 01/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:94/2017/HSPT
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về