Bản án 94/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 94/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 424/2018/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2018/QĐXX - ST ngày 25 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Đắc Lan T, sinh năm: 1995; Địa chỉ: Đường NH, khu phố B, thị trấn HT, huyện HT, tỉnh Tây Ninh. (có mặt)

- Bị đơn: Anh Lê T1, sinh năm: 1991; Địa chỉ: Đường M, tỉnh lộ B, ấp H, xã TT, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Đắc Lan T trình bày:

Chị cùng anh Lê T1 chung sống với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Hòa Thành ngày 10/10/2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống cùng cha mẹ chị T. Trong quá trình chung sống, theo chị do anh T1 không chăm lo cho vợ con, vợ chồng bất đồng quan điểm, chị T làm công việc gì chồng cũng không ủng hộ, cụ thể, chị bán hàng tự do ở nhà anh T1 không cho bán, chị đi bán hàng điện thoại di động anh T1 không đồng ý, yêu cầu chị ở nhà chăm sóc con. Vợ chồng ly thân tháng 8/2017 do chị chủ động; khi ly thân chị đi Cà Mau làm việc không thông báo gì với anh T1. Sau khi chị bỏ đi Cà Mau làm việc, anh T1 vẫn sống chung nhà với cha mẹ chị, sau đó cha mẹ chị yêu cầu anh T1 về trên nhà ở TT, thành phố Tây Ninh sống từ sau tết nguyên đán đến nay. Chị T nhận thấy vợ chồng không còn hợp nhau về tính cách và quan điểm sống, tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê V, sinh ngày 26/11/2015; chị T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo bị đơn anh Lê T1 trình bày:

Anh T1 thống nhất với lời trình bày của chị T về thời gian kết hôn, thời gian vợ chồng ly thân, con chung. Theo anh T1 nhận thấy hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì nên không đồng ý ly hôn. Nếu Tòa án giải quyết cho anh và chị T ly hôn, anh yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Thẩm phán thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: đã chấp hành và thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của chị T, cho chị T được ly hôn với anh T1.

Về con chung: giao cháu Lê V cho anh T1 nuôi dưỡng, ghi nhận anh T1 không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Về án phí chị T phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án do các bên cung cấp, qua kết quả thẩm tra các tài liệu chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Bùi Đắc Lan T và anh Lê T1 có đăng ký kết hôn ngày 10-10-2013 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

[2] Về nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn: giữa anh T1 và chị T không có sự thống nhất; theo chị T vợ chồng mâu thuẫn là do anh T1 vô tâm không chăm lo chu đáo cho vợ con, theo anh T1 thì hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì, anh còn tình cảm với chị T nên không đồng ý ly hôn, đề nghị được đoàn tụ, vợ chồng cùng nhau xây dựng đời sống chung, chăm lo cho con.

Xét thấy, giữa anh T1 và chị T không thống nhất nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn nhưng anh chị đều thống nhất hai vợ chồng bắt đầu ly thân từ tháng 8-2017 do chị T chủ động nhưng vẫn sống chung tại nhà cha mẹ chị T, sau đó chị T bỏ đi Cà Mau làm việc mà không thông báo cho anh T1 biết. Sau tết nguyên đán 2018 khoảng 01 tháng, anh T1 đã đem con chung về xã Thạnh Tân sinh sống tới nay. Từ khi anh chị ly thân đến nay hai anh chị chỉ gặp mặt 01 lần nhưng cả hai không có tiếng nói chung, không bàn bạc với nhau về việc vợ chồng đoàn tụ được nên Hội đồng xét xử nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa anh chị không còn, không có khả năng hàn gắn, mâu thuẫn vợ chồng đã thoả mãn các quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T và lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh cho chị T được ly hôn với anh T1.

[2] Về con chung: Cháu Lê V sinh ngày 26-11-2015, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình thì: “con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Trong vụ án này, cả chị T và anh T1 đều có yêu cầu được nuôi cháu V và không yêu cầu dưỡng nuôi con. Từ khi anh T1 và chị T ly thân, chị T đi Cà Mau làm việc, anh T1 là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V, chị T không phụ tiền nuôi con cùng anh T1. Xét thấy, hiện nay chị T đang làm việc tại Cà Mau, chị có nguyện vọng được nuôi cháu V nhưng chị trình bày chị không có điều kiện chăm sóc cháu trực tiếp mà sẽ giao cho mẹ chị chăm sóc; Hội đồng xét xử xét thấy về điều kiện nuôi con cả anh T1 và chị T đều có điều kiện kinh tế để nuôi con, từ ngày anh T1, chị T ly thân đến nay, anh T1 là người trực tiếp chăm sóc cháu V, cháu đã sinh sống ổn định nên để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của cháu, Hội đồng xét xử thấy nên giao cháu V cho anh T1 tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Tại phiên tòa, chị T đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu V mỗi tháng 5.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3] Tài sản chung, nợ chung: Chị T, anh T1 không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[3] Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Đắc Lan T đối với anh Lê T1.

Về hôn nhân: Cho chị Bùi Đắc Lan T ly hôn với anh Lê T1. Chị Bùi Đắc Lan T và anh Lê T1 chấm dứt quan hệ vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Lê V, sinh ngày 26-11-2015 cho anh T1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con anh T1 chị T; chị T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng.

Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và anh T1 có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chị T không thi hành hoặc chậm thi hành số tiền nêu trên thì hàng tháng chị T còn phải trả cho anh T1 số tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Tài sản chung, nợ chung: Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí so thẩm: Bùi Đắc Lan T phải chịu 300.000 ly hôn và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, khấu trừ tiền tạm ứng án phí Thanh đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0005749 ngày 23/7/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. còn phải tiếp tục nộp 300.000 đồng.

Đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2018/HNGĐ-ST ngày 23/10/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:94/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về