Bản án 94/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 94/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 09 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trực Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 80/2019/TLST-HNGĐ ngày 15/5/2019 về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/6/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M - Sinh năm 1990. Địa chỉ: Xóm H, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H - Sinh năm 1986.

Đa chỉ: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa: Chị M vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt). Anh H vắng mặt mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 06/5/2019 và bản tự khai, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị M trình bày:

Chị đăng ký kết hôn với anh Nguyễn Văn H vào ngày 21/01/2013 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Nam Định. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do tính cách, quan điểm sống không hợp nhau, vợ chồng không có tiếng nói chung trong cuộc sống, từ đầu năm 2019 vợ chồng đã sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ được với nhau nên làm đơn xin ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Ngọc Minh C - Sinh ngày 19/7/2013 và Nguyễn Ngọc Cát T – Sinh ngày 28/10/2015. Hiện cả hai con đang ở cùng chị, khi ly hôn chị nhận nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/6/2019, bà Đặng Thị H (là mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn H) cung cấp như sau:

Anh Nguyễn Văn H đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án như : Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng do bận công việc nên anh H không đến Tòa án làm việc và có quan điểm như sau: Anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ được với nhau nên đồng ý ly hôn. Anh đồng ý để chị M nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Ngọc Minh C - Sinh ngày 19/7/2013 và Nguyễn Ngọc Cát T - Sinh ngày 28/10/2015, anh không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa của Thẩm phán và HĐXX đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành nghiêm chỉnh quy định về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 70; 71 BLTTDS;

Bị đơn mặc dù đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không có mặt để hòa giải và không xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại các Điều 70; 72 BLTTDS.

Việc Tòa án hoãn phiên tòa do có sự vắng mặt của bị đơn lần thứ nhất và mở lại phiên tòa lần thứ hai, xét xử vụ án khi đương sự ( nguyên đơn ) có đề nghị xét xử vắng mặt là đúng quy định tại Điều 227; 228; 233; 238 BLTTDS.

Về nội dung:

Xét thấy vợ chồng chị M, anh H đã sống ly thân từ lâu, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị M và anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Giao 02 con chung là Nguyễn Ngọc Minh C - Sinh ngày 19/7/2013 và Nguyễn Ngọc Cát T – Sinh ngày 28/10/2015 cho chị M nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị M về việc không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Không đề nghị giải quyết nên không xem xét. Về án phí: Chị M phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục trong việc tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn H nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do là vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại các Điều 70; 72 BLTTDS.

Việc Tòa án hoãn phiên tòa do có sự vắng mặt của bị đơn lần thứ nhất và mở lại phiên tòa lần thứ hai, xét xử vụ án khi đương sự có đề nghị xét xử vắng mặt là đúng quy định tại Điều 227; 228; 233; 238 BLTTDS [2] Về tình cảm: Chị Nguyễn Thị M kết hôn với anh Nguyễn Văn H ngày 21/01/2013 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Nam Định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do tính cách, quan điểm sống không hợp nhau, vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2019. Nay chị M có đơn yêu cầu ly hôn.

Sau khi chị M có đơn khởi kiện xin ly hôn, TAND huyện Trực Ninh đã thông báo nội dung khởi kiện xin ly hôn của chị M cho anh H nhưng anh H không có mặt tại Tòa án để làm việc.

Theo yêu cầu của chị M, TAND huyện Trực Ninh đã tiến hành thu thập chứng cứ.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/6/2019, bà Đặng Thị H (là mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn H) cung cấp như sau:

Anh Nguyễn Văn H đã nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án nhưng do bận công việc nên anh không đến Tòa án làm việc và xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ được với nhau nên đồng ý ly hôn.

Hi đồng xét xử xét thấy: Giữa chị M và anh H đã phát sinh mâu thuẫn từ lâu, hiện tại đã sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn, vì vậy quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, mục đích của hôn nhân không đạt được, không thể đoàn tụ được với nhau được nữa nên việc chị M xin ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật nên được HĐXX chấp nhận.

[3] Về con chung: Xét yêu cầu của các đương sự về việc nhận nuôi con chung HĐXX thấy: Hiện tại hai con chung đang ở với chị M từ khi vợ chồng sống ly thân, anh H vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình chuẩn bị xét xử, mặc dù được thông báo nhiều lần nhưng anh H không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về việc nhận nuôi con chung mà chỉ trao đổi qua bà H về nguyện vọng nuôi con nên để đảm bảo việc học tập, chăm sóc giáo dục con chung cần giao cho chị M có trách nhiệm nuôi dưỡng con chung của vợ chồng. Việc chị M không yêu cầu anh H cấp dưỡng là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận. Anh H có thể khởi kiện bằng vụ kiện khác về thay đổi nuôi con nếu như có yêu cầu và có căn cứ chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tài sản, khoản nợ chung: Đương sự không đề nghị giải quyết nên không xem xét. Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng không thể hiện chị M và anh H có tài sản, khoản nợ chung nên không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị M nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị M và anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị M có trách nhiệm nuôi dưỡng 02 con chung là Nguyễn Ngọc Minh C - Sinh ngày 19/7/2013 và Nguyễn Ngọc Cát T - Sinh ngày 28/10/2015. Hiện cả hai con chung đang ở cùng chị M. Chấp nhận sự tự nguyện của chị M về việc không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Nguyễn Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Án phí: Chị Nguyễn Thị M phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị M đã nộp theo biên lai thu tiền số 05029 ngày 15/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Chị M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Thị M và anh Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ theo quy định của BLTTDS.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, Điều7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:94/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về