Bản án 95/2018/HSST ngày 14/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN – TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 95/2018/HSST NGÀY 14/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 03 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 71/2018/HSST ngày 25/01/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2018/QDXXST - HS ngày 28/02/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Văn P, sinh ngày 06 tháng 08 năm 1974.

Tên gọi khác: Không

Nơi đăng ký NKTT: Xóm A, xã M, huyện Đ, tỉnh T; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 6/10;Con ông: Hoàng Xuân H(đã chết); Con bà: Đinh Thị S. Sinh năm 1953; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Có vợ: Vũ Thị Hồng T, sinh năm 1980; Có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2005.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giam từ ngày 21/12/2017 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt tại phiên tòa)

Người chứng kiến:

1. Anh Hà Việt D, sinh năm 1967 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 19, phường H, Thành phố T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 9 giờ 30 phút ngày 21/12/2017, tổ công tác của Công an phường H, thành phố T làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 29 của phường thì phát hiện 01 người nam giới có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người nam giới khai là Hoàng Văn P và tự giác lấy từ túi áo khoác bên trái mà P đang mặc ra 01 gói giấy màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng(P khai là Hêrôin) giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiền hành cân xác định trọng lượng số chất bột màu trắng thu giữ của P có trọng lượng 0,13gam

Tại bản kết luận giám định số 196/KL –PC54 ngày 27/12/2017 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ được của Hoàng Văn P là chất ma túy, loại Hêrôin có trọng lượng(khối lượng) là: 0,13gam

Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn P khai nhận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 21/12/2017, P một mình đi xe ôm của một người không quen biết sang khu vực Bến xe khách cũ với mục đích để mua Hêrôin về sử dụng cho bản thân. Đến nơi, P gặp và hỏi mua của một người nam giới không quen biết 01 gói Hêrôin bên ngoài gói bằng giấy màu vàng với giá 50.000 đồng. Sau khi trả tiền và nhận gói ma túy, P cất gói ma túy vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi chờ xe ôm để về nhà sử dụng thì bị tổ công tác của Công an phường H, thành phố T phát hiện bắt quả trang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Lời khai nhận của Hoàng Văn P phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu P.

Tại bản cáo trạng số 78/KSĐT - MT, ngày 23/03/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Hoàng Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 3 Điều 7 BLHS 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017;  Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù giam. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy : 01 bì niêm phong ký hiệu P.

- Bị cáo phải chịu án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] .Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của  bị cáo Hoàng Văn P tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Do nghiện ma túy, ngày 21/12/2017 Hoàng Văn P đã có hành vi mua ma túy với số lượng 0,13 gam Hêrôin với giá 50.000 đồng mục đích để sử dụng cho bản thân, chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi của nêu trên của  Hoàng Văn P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

[3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Tội phạm và hình phạt của Hoàng Văn P được quy định tại khoản 1 của Điều 194 Bộ  luật Hình sự  năm 1999. Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH1 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14, bị cáo được áp dụng nguyên tắc có lợi  để xét xử bị cáo theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Nội dung điều luật quy định như sau:

 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ......................................thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm  đến 05 năm

a, .................................. b,...................................

c, Heroine,...........................có khối lượng từ  0,1 gam  đến dưới 05 gam”.

[4] . Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma túy là mặt hàng cấm do Nhà nước độc quyền quản lý, song do nghiện ma túy, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, việc đưa ra  xét xử đối với bị cáo là cần thiết nhằm răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

- Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay có thái độ khai báo thành khẩn, vì vậy được hưởng  tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 BLHS.

[5]. Về hình phạt:  Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với bị cáo, xét thấy là phù hợp được chấp nhận.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội lẽ ra cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước, nhưng qua xác minh bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì riêng, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về vật chứng vụ án: áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu P.

[8]. Các vấn đề khác: Trong vụ án này Hoàng Văn P khai mua ma túy  của 01 nam thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực bến xe khách cũ Thái Nguyên. Quá trình điều tra, do không xác định được lai lịch địa chỉ của nam thanh niên trên, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở  điều tra làm rõ để xử lý.

[9]. Bị cáo phải nộp án phí HSST và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:  Bị cáo Hoàng Văn P phạm tội: “Tàng trữ  trái phép chất ma tuý"

Căn cứ vào:  Điểm c, khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn P: 15 (Mười lăm) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 21/12/2017; Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án;

2. Về vật chứng của vụ án:  Áp dụng  Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu P.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 123 ngày 16/01/2018).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2018/HSST ngày 14/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:95/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về