Bản án 95/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH B PHƯỚC

BẢN ÁN 95/2019/HS-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 87/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 đối và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2019/HSST-QĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019 với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh năm 1997, tại B Phước; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Ấp 2, xã Đồng Tâm, huyện Đồng Phú, tỉnh B Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1971 (đã chết) và bà Bùi Thị P, sinh năm 1978; bị cáo chưa có vợ, có con;

Tiền án: Ngày 13 tháng 7 năm 2017 bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài xử phạt 08 tháng 07 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” bằng thời hạn tạm giam, án phí hình sự đã chấp hành xong ngày 16 tháng 8 năm 2018.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03 tháng 4 năm 2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Ông Phùng Ngọc S, sinh năm: 1987; Địa chỉ nơi cư trú: khu phố Phước T, phường Tân T, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Hoàng Kim T, sinh năm: 1988; Địa chỉ nơi cư trú: khu phố 4, phường Tân Đồng, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước (vắng mặt).

Bà Cao Thị Bích H, sinh năm: 1982; Địa chỉ nơi cư trú: khu phố Thanh B, phường Tân B, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước (vắng mặt).

Ông Nguyễn Tri B, sinh năm: 1984; Địa chỉ nơi cư trú: khu phố Phước T, phường Tân T, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước (có mặt).

Bà Lê Thị H, sinh năm: 1990; Địa chỉ nơi cư trú: khu phố Phú Thịnh, phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 12/2018 Nguyễn Minh T đến làm thuê tại tiệm cầm đồ “An B” thuộc khu phố W, phường Tân Xuân, thành phố Đồng Xoài do anh Phùng Ngọc S làm chủ. Trong thời gian làm thuê cho anh S, T thường xuyên chơi game đánh bạc trực tuyến “ManVip” trên mạng Intrenet dẫn đến việc vay nợ của Hoàng Kim T số tiền 30.000.000 đồng. Cũng trong thời gian này T được anh S giao cho trông coi việc quản lý sổ sách, trông coi các xe mô tô do khách cầm cố và tài sản tại tiệm cầm đồ.

Ngày 27/3/2019 T đang ở tiệm cầm đồ “An B” thì T gọi điện thoại đòi nợ số tiền 30.000.000 đồng, do lúc này T không có tiền trả cho T nên đã nảy sinh ý định lấy xe mô tô tại tiệm cầm đồ “An B” để thế chấp cho T. Ngày 30/3/2019 T lấy 01 xe mô tô hiệu Honda Future F1 biển số 93B1-097.37 của anh S tại tiệm cầm đồ “An B” thế chấp cho T nhằm trừ nợ và gọi điện cho chị Cao Thị Bích H nói có xe mô tô cần cầm cố thì chị H đồng ý. Sau đó T mang đến tiệm cầm đồ “Kim H” do chị H làm chủ thuộc khu phố Thanh B, phường Tân B, thành phố Đồng Xoài cầm với số tiền 12.000.000 đồng và đưa lại giấy tờ cầm cố xe cho T. Do không có tiền trả nợ số tiền còn lại cho T nên T đã lấy xe mô tô hiệu Honda Wave ZX biển số 93P2-084.01 của anh S tại tiệm cầm đồ “An B” mang đến tiệm cầm đồ “B An” do anh Nguyễn Tri B làm chủ thuộc khu phố Phước T, phường Tân T, thành phố Đồng Xoài cầm cố với số tiền 12.000.000 đồng và sử dụng hết vào việc đánh bạc trực tuyến “ManVip” trên mạng Intrenet. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, T tiếp tục lấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 93C1-022.04 của anh S tại tiệm cầm đồ “An B” mang đến tiệm cầm đồ “Kim H” cầm với số tiền 15.000.000 đồng và sử dụng hết vào việc đánh bạc trực tuyến “ManVip” trên mạng Intrenet. Ngày 01/4/2019 T tiếp tục lấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Click biển số 93N3-8923 của anh S tại tiệm cầm đồ “An B” mang đến tiệm cầm đồ “Kim H” cầm với số tiền 7.000.000 đồng và tiêu xài hết. Đến ngày 02/4/2019 do bị T gọi điện yêu cầu trả nợ số tiền còn lại nên T tiếp tục lấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển số 93P1-145.67 của anh S tại tiệm cầm đồ “An B” đưa cho T để thế chấp trả nợ. Sau đó T mang xe mô tô trên đến tiệm cầm đồ “Thanh Hồng” thuộc khu phố Phú Thịnh, phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài do chị Lê Thị H làm chủ cầm cố với số tiền 20.000.000 đồng và đưa lại giấy tờ cầm xe cho T. Ngày 03/4/2019 anh Phùng Ngọc S có đơn trình báo đến Công an phường Tân Xuân, thành phố Đồng Xoài về việc bị T chiếm đoạt các xe mô tô trên.

Tại kết luận định giá tài sản số: 68/KLĐG ngày 09/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Đồng Xoài kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave ZX màu đỏ đen đã qua sử dụng trị giá 12.000.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Future FI màu đỏ đen đã qua sử dụng trị giá 12.000.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu trắng xanh đã qua sử dụng trị giá 22.000.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Click đã qua sử dụng trị giá 6.000.000 đồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu trắng xanh đã qua sử dụng trị giá 18.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là: 70.00.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).

Quá trình điều tra thu giữ: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 93C1-022.04 và giấy chứng nhận đăng ký xe; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Click biển số 93N3-8923 màu đen và giấy chứng nhận đăng ký xe; 01xe mô tô nhãn hiệu Honda Future FI biển số 93B1-097.37 màu đỏ đen và giấy chứng nhận đăng ký xe; 01xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave ZX biển số 93P2-084.01 màu đỏ đen; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh trắng biển số 93P1-145.67 và giấy chứng nhận đăng ký xe; 01 chứng minh nhân dân phô tô mang tên Hoàng Kim T.

Ngày 08/5/2019 CQĐT Công an thành phố Đồng Xoài ra quyết định xử lý vật chứng trả lại các xe mô tô và các giấy chứng nhận đăng ký xe trên cho anh Phùng Ngọc S.

Tại Bản cáo trạng số: 88/CT-VKS-ĐX ngày 08/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T mức án từ 36 đến 42 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Phùng Ngọc S đã nhận lại các tài sản, không yêu cầu gì thêm về phần dân sự. Ông Nguyễn Tri B yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền cầm cố xe mô tô là: 12.000.000 đồng, bà Cao Thị Bích H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền cầm cố xe mô tô là: 34.000.000 đồng. Bà Lê Thị Hồng đã nhận được số tiền bồi thường 20.000.000 đồng từ ông Hoàng Kim T nên không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Bị cáo Nguyễn Minh T tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số: 88/CT-VKS-ĐX ngày 08/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với kết luận điều tra, biên bản thu giữ tài sản; biên bản định giá tài sản, cùng các chứng cứ T liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Trong khoảng thời gian từ ngày 30 tháng 3 năm 2019 đến ngày 02 tháng 4 năm 2019 Nguyễn Minh T đã lấy 05 chiếc xe môt tô của ông Phùng Ngọc S để cầm cố lấy tiền trả nợ và đánh bạc trực tuyến. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là: 70.00.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng).

[3] Hành vi lợi dụng sự tin tưởng của ông S trong việc giao tài sản để chiếm đoạt của bị cáo Nguyễn Minh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 70.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Bị cáo là người đã thành niên, khi phạm tội bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự tin tưởng của chủ sở hữu trong việc giao tài sản để chiếm đoạt là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích tiêu xài cá nhân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả từ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa bị cáo đã thật sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình.

[6] Đối với Hoàng Kim T là người nhận thế chấp xe mô tô biển số 93B1-097.37 và 93P1-145.67 của T và mang đi cầm cố để trừ nợ, tuy nhiên quá trình điều tra xác định việc T mang các xe trên đi cầm cố đều được T đồng ý, đồng thời bản thân T không biết các xe mô tô trên do T phạm tội mà có nên không đề cập xử lý.

Đối với các chủ cơ sở cầm đồ “Kim H”, “B An” và “Thanh Hồng” là chị Cao Thị Bích H, anh Nguyễn Tri B và chị Lê Thị H là người nhận cầm cố các xe mô tô của T và T nhưng không biết các tài sản trên là do T phạm tội mà có nên không đề cập xử lý. Tuy nhiên việc cầm cố các xe mô tô trên không phải chính chủ sở hữu, do đó bị Công an thành phố Đồng Xoài ra quyết định xử phạt hành chính mỗi người số tiền 3.500.000 đồng.

Đối với hành vi đánh bạc của bị can T, CQ.CSĐT Công an thành phố Đồng Xoài tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Phùng Ngọc S đã nhận lại các tài sản, không yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ông Nguyễn Tri B yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền cầm cố xe mô tô là: 12.000.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo T đồng ý bồi thường cho ông B số tiền 12.000.000 đồng nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

Bà Cao Thị Bích H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền cầm cố xe mô tô là: 34.000.000 đồng, tại phiên tòa bị cáo T đồng ý bồi thường cho bà H số tiền 34.000.000 đồng nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

Bà Lê Thị H đã nhận được số tiền bồi thường 20.000.000 đồng từ ông Hoàng Kim T nên không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 03 tháng 4 năm 2019.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo Nguyễn Minh T phải trả cho ông Nguyễn Tri B, sinh năm: 1984 số tiền là 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng).

Bị cáo Nguyễn Minh T phải trả cho bà Cao Thị Bích H, sinh năm: 1982 số tiền là 34.000.000 đồng (ba mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày thỏa thuận có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 02 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì các đương sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Án phí dân sự bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu là 2.300.000 đồng (hai triệu ba trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:95/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về