Bản án 96/2019/HSPT ngày 23/07/2019 về tội buôn bán hàng cấm    

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 96/2019/HSPT NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 70/2019/TLPT-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Lê Thanh H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2019/HS-ST ngày 16/04/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh.

- Bị cáo kháng cáo: Lê Thanh H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 10/7/1991 tại xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh T và bà Lê Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Thái Hồng H, luật sư Văn phòng luật sư Thái Hồng H thuộc đoàn luật sư tỉnh Nghệ An, có mặt.

- Bị cáo không kháng cáo: Lê Anh T; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo:

Bà Lê Thị Đ; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt.

Ông Lê Văn L; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 16/01/2019, có một người tên là A (C) gọi điện thoại cho Lê Thanh H hỏi: Có pháo hoa không, lấy cho tao ít. H đồng ý rồi gọi điện thoại cho Lê Anh T và khoảng 11 giờ cùng ngày, H gặp T trao đổi việc mua bán pháo và thống nhất T góp 10.000.000 đồng, H góp 7.000.000 đồng để mua từ 20 - 25 hộp pháo hoa loại 36 quả về bán lại cho người khác kiếm lời. Do H chưa có tiền nên T đồng ý bỏ tiền trước. Khoảng 09 giờ ngày 17/01/2019 T đi xe buýt lên thị trấn S, mua 26 hộp pháo với số tiền 15.600.000 đồng rồi đưa về nhà 06 hộp pháo cấu dấu trong phòng ngủ của mình, 20 hộp pháo T dấu tại vườn nhà bà Trần Thị B (bà nội T) ở thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh. Sau đó T gọi điện thông báo cho H đã mua được pháo thì H nói: Để liên lạc với người mua đã rồi báo lại. Đến khoảng 11 giờ ngày 19/01/2019, trong lúc ngồi uống nước với một người bạn mà H khai tên H ở xã T, huyện Đ, tỉnh Hà lĩnh thì có người đàn ông gọi điện cho H xưng tên là H (bạn của H) hỏi: Có pháo bán không bán cho anh mười lăm đến hai mươi dàn ba sáu. H gọi điện cho T, nói: Có thằng bạn bác hỏi mua pháo, chú chuẩn bị đó rồi tối đưa đi. Sau đó H gọi điện thống nhất với H: Có hai mươi dàn mỗi dàn 900.000 đồng. Khoảng 19 giờ cùng ngày, H gọi điện cho T rồi đi đến cổng trường tiểu học Đ 2 gặp T. Cả hai đi lấy 20 hộp pháo ở vườn bà B. H cầm pháo ngồi lên xe mô tô BKS 38P1.040.12 do T điều khiển đi đến khu vực cánh đồng thuộc Thôn T, xã Đ thì T xuống xe dấu pháo bên đường, còn H điều khiển xe mô tô của T đi ra cây xăng xã Đ đón người mua pháo dẫn vào gặp T nói: Đứng người rồi, tý bác thu tiền thì mỗi hộp giá 900.000 đồng. Trong lúc đang giao pháo cho người mua, thì T bị cơ quan CSĐT Công an huyện Đ phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 20 hộp pháo đựng trong bao tải màu da cam. H và hai nam thanh niên mua pháo bỏ chạy. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Anh T, thu giữ 06 hộp pháo. Đến ngày 25/01/2019, Lê Thanh H về đầu thú tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ.

Tại bản kết luận giám định số 124/GĐP-PC09 ngày 23/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: 26 khối hộp giấy, ngoài có hoa văn nhiều màu sắc và chữ nước ngoài có kích thước khác nhau là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ, có tổng khối lượng là 29,86kg.

Với hành vi trên, tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 07/2019/HS-ST ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh đã Quyết định:

Căn cứ điểm C khoản 1 điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; điều 65 BLHS; điểm a, c khoản 1, khoản 2 điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 1, 2 điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 điều 3; điều 6; khoản 1, 3 Điều 21; điểm a, c khoản 1 Điều 23; điểm b khoản 1 Điều 24 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Lê Thanh H, Lê Anh T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Xử bị cáo Lê Thanh H 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Bản án sơ thẩm còn tuyên xử phạt bị cáo Lê Anh T 15 tháng tù cho hưởng án treo, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, ngày 26/4/2019 bị cáo Lê Thanh H kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và bổ sung kháng cáo xin được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nhân thân, hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo Lê Thanh H giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo phạm tội do nhận thức thiếu hiểu biết, nhân thân chưa có vi phạm pháp luật gì, đây là lần đầu vi phạm pháp luật, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo Lê Thanh H được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo hoàn toàn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với thời gian, địa điểm phạm tội, vật chứng thu giữ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình và đồng phạm là trái pháp luật, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về pháo nổ, gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn nhưng vẫn cố ý phạm tội nhằm mục đích mua bán pháo để kiếm lời. Cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm c khoản 1 điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xét xử bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm” với hình phạt 15 (Mười lăm) tháng tù là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

Tuy nhiên Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thanh H đã thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, từ trước đến nay cũng chưa có vi phạm pháp luật gì, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, bị cáo có bố mẹ tham gia kháng chiến Nam Lào, chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo. Do đó, để thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo được sửa đổi lỗi lầm dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình mà không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian cũng đủ nghiêm.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo kháng cáo được chấp nhận không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị cáo Lê Thanh H, sửa bản bản án sơ thẩm số 07/2019/HS-ST ngày 16/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh giữ nguyên phần hình phạt tù và cho hưởng án treo.

Căn cứ điểm điểm c khoản 1 điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; điều 65 BLHS Bộ luật hình sự

Tuyên bố bị cáo Lê Thanh H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Xử bị cáo Lê Thanh H 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án heo, thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Lê Thanh H cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh và gia đình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước đó và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại điều 56 của Bộ luật Hình sự. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 điều 69 luật thi hành án hình sự.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bị cáo Lê Thanh H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

368
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HSPT ngày 23/07/2019 về tội buôn bán hàng cấm    

Số hiệu:96/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về