Bản án 96/2019/HS-ST ngày 01/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 96/2019/HS-ST NGÀY 01/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 108/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

Nguyễn Văn G, sinh năm 1984 tại Thanh Hóa, Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số nhà 35/5 T, phường Đ, TP T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K và bà Khương Thị N; Có vợ là Lê Thị Nin N và có 01 con; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 04/11/2018, bị Công an thành phố Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi dùng thủ đoạn gian dối bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác; Nhân thân: Ngày 16/5/2014, bị TAND TP Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/11/2018 đến ngày 14/11/2018 chuyển tạm giam, đến ngày 30/01/2019 thay thế bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa. Lê Bá C, sinh năm 1992 tại Thanh Hóa, Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số nhà 142 N, phường Q, TP T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Bá H và bà Đỗ Thị B; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/11/2018 đến ngày 14/11/2018 chuyển tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Đỗ Minh C - Sinh năm 1981 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Xã H, huyện H1, tỉnh Thanh Hóa.

2. Anh Nguyễn Văn L - Sinh năm 1973 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Xã Q, huyện Q1, tỉnh Thanh Hóa.

3. Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1995.

Địa chỉ: Thôn Â, xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

4. Anh Lê Anh T - Sinh năm 1990.

Địa chỉ: Số nhà 162 Q, phường A, TP T, tỉnh Thanh Hóa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Cao Văn H (vắng mặt).

Địa chỉ: Số nhà 251 L, phường Đ, TP Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04h30’ ngày 09/11/2018, Nguyễn Văn G, sinh năm 1984, trú tại số nhà 35/5 T, phường Đ, TP T, tỉnh Thanh Hóa và Lê Bá C, sinh năm 1992, trú tại số nhà 142 N, phường Q, TP T, tỉnh Thanh Hóa đến tầng 4 khoa chỉnh hình - bỏng nhà A6 Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa để trộm cắp. G và C vào phòng bệnh nhân ở tầng 4 quan sát, sau đó khoảng 10 phút C đi ra ngoài trước phòng làm nhiệm vụ canh giới, lợi dụng bệnh nhân đang ngủ, Giáp nhìn thấy chiếc điện thoại mày trắng cảm ứng của anh Đỗ Minh C, sinh năm 1981 ở xã H, huyện H1, tỉnh Thanh Hóa đang để trên đầu giường đầu tiên bên phải cửa ra vào, G thò tay lấy rồi đi ra ngoài cửa hành lang. G nhìn sang phía bên phải đầu giường anh Nguyễn Văn L đang ngủ thấy chiếc điện thoại màu đen nhãn hiệu FORME đang để trên đầu giường, G thò tay lấy trộm rồi bỏ vào túi quần, sau đó G nhìn sang bên trái đầu giường chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1995 ở xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đang nằm ngủ, trên tay đang cầm chiếc điện thoại, G tiếp tục thò tay vào lấy. Khi vừa trộm cắp được chiếc điện thoại thì G bị phát hiện và bắt quả tang đưa về trụ sở Công an phường Đ lập biên bản giữ vật chứng gồm: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đỏ, 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu trắng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu FORME vỏ nhựa màu đen (BL 15-16).

Đến 11h cùng ngày Lê Bá C đến Công an phường A đầu thú và khai nhận toàn hộ hành vi phạm tội của mình (BL 72).

Ngoài ra, vào khoảng 15h25’ ngày 08/11/2018, G và C đến quán Bi-a ở 162 phố Q, phường A, TP Thanh Hóa để chơi Bi-a. Trong lúc đang chơi Bi-a, G và C quan sát thấy anh Lê Anh T, sinh năm 1990, trú tại: Xóm T, xã Đ TP T là quản lý của quán đang nằm ngủ, G thấy anh T để 01 chiếc điện thoại Nokia 6700 gol trên mặt bàn và 01 chiếc điện thoại Iphone 6 Plus màu vàng đang cắm sạc dưới nền nhà. G nói với C quan sát để ý xem có ai ra vào không, G lén lút dùng tay lấy chiếc điện thoại Nokia 6700 gol cho vào túi và tiếp tục dùng gậy chơi Bi-a khều chiếc điện thoại Iphone 6 Plus. Sau khi trộm cắp được, G và C bắt xe taxi đến cửa hàng mua bán điện thoại Hai Mobi ở 251 L, phường Đ, TP Thanh Hóa bán hai chiếc điện thoại với giá 1.000.000đ để tiêu sài cá nhân (BL 86-88, 90-92, 94-96, 98-100, 104-106, 107-108).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 214/KL-HĐĐGTS và số 215/KL- HĐĐGTS ngày 12/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 trị giá: 4.600.000đ;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu FORME cũ trị giá: 120.000đ;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO cũ trị giá: 2.000.000đ;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus cũ trị giá: 5.000.000đ;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 6700 trị giá: 1.100.000đ;

Vào các ngày 20/01/2019, 21/01/2019, 22/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Thanh Hóa đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu, chủ sở hữu không có yêu cầu bồi thường gì thêm (BL 137, 138, 139, 140).

Đối với Cao Văn H là người mua 02 chiếc điện thoại mà G và C trộm cắp, tuy nhiên bản thân H không biết đây là tài sản trộm cắp nên không có căn cứ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 94/CT-VKS-SHTP ngày 25/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP Thanh Hoá đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn G, Lê Bá C về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Khoản 1 Điều 173, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn G, Lê Bá C; căn cứ điểm I khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Bá C. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo G từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, bị cáo C từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP Thanh Hóa, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay Nguyễn Văn G và Lê Bá C khai nhận: Do có mục đích chiếm đoạt tài sản nên vào ngày 08/11/2018, tại số nhà 162 phố Q, phường A, TP T, Nguyễn Văn G và Lê Bá C đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt của anh Lê Văn T 01 điện thoại Nokia 6700 và một điện thoại Iphone 6 Plus trị giá 6.100.00đ; Ngày 09/11/2018, tại tầng 4 khoa chỉnh hình - bỏng nhà A6 Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa, G và C chiếm đoạt của anh Đỗ Minh C, anh Nguyễn Văn L và chị Nguyễn Thị H 01 điện thoại OPPO, 01 điện thoại FORME và 01 điện thoại OPPO F5 trị giá 6.720.000đ. Tổng giá trị tài sản hai lần các bị cáo chiếm đoạt là 12.820.000đ.

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, lời khai của các bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của các bị cáo có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và khung hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy nghiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Thanh Hóa; các bị cáo đã lợi dụng sơ hở của người bị hại trong quản lý tài sản để lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện các bị cáo là người rất liều lĩnh và táo bạo, coi thường pháp luật cho nên hành vi của các bị cáo phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo:

Trong hai ngày 08 và 09/11/2018, các bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vì vậy các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Văn G có 01 tiền sự: Ngày 04/11/2018, bị Công an thành phố Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi dùng thủ đoạn gian dối bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác; Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 16/5/2014, bị TAND TP Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, quá trình điều tra, xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo; Bị cáo C phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, ngày 09/11/2018, bị cáo đã đến phường A, thành phố Thanh Hóa đầu thú, Vì vậy nên áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với hai bị cáo; áp dụng quy định tại điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo C để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể cho từng người. Bị cáo G là người khởi xướng đã rủ bị cáo C cùng thực hiện hành vi trộm cắp đồng thời là người thực hành tích cực. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 58 của Bộ luật Hình sự để xem xét, cân nhắc mức hình phạt cho phù hợp với từng bị cáo.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Vào các ngày 20/01/2019, 21/01/2019, 22/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP Thanh Hóa đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu, chủ sở hữu không có yêu cầu bồi thường gì thêm. Đối với số tiền 1.000.000đ mà người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Cao Văn H đã bỏ ra để mua hai chiếc điện thoại Nokia 6700 và Iphone 6 Plus, anh H không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền này cho anh và anh cũng không có yêu cầu gì khác. Vì vậy công nhận phần trách nhiệm dân sự của các bị cáo đối với các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã giải quyết xong.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[7]. Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 đối với bị cáo Nguyễn Văn Giáp, Lê Bá Cường; 

Áp dụng điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Bá Cường.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn G, Lê Bá C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn G 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ, thời gian tạm giam là 02 tháng 21 ngày.

Xử phạt: Bị cáo Lê Bá C 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 09/11/2018.

Về trách nhiệm dân sự: C«ng nhËn phần trách nhiệm dân sự của các bị cáo đối với các bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã giải quyết xong.

Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn G, Lê Bá C, mỗi cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HS-ST ngày 01/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:96/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về