Bản án 96/2019/HS-ST ngày 09/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 96/2019/HS-ST NGÀY 09/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 106/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Kiều T (Tên gọi khác: B), sinh năm 1988 tại Đắk Lắk; nơi cư trú: Tổ dân phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị T2; có chồng là Huỳnh Văn V và 4 người con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị tạm giữ ngày 11-5-2019 đến ngày 20-5-2019 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Bị hại: Chị Trần Úc Q, sinh năm 1994; địa chỉ: 359/13 đường H, tổ dân phố 11, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.Người chứng kiến: Anh Phạm Xuân H, sinh năm 1974; địa chỉ: Tổ dân phố 2, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ

ÁN

 

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trên cơ sở kết quả điều tra, xác định được như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 11-5-2019, Nguyễn Thị Kiều T đón xe khách từ tỉnh Đắk Lắk sang thành phố P, tỉnh Gia Lai để tìm người. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, T nhờ một người phụ nữ không quen biết và trả công với số tiền 100.000 đồng để nhờ người phụ nữ này chở đến cổng chợ đường N, thành phố P để tìm người. Khi đi đến trước cổng chợ, T nhìn thấy chị Trần Úc Q đang đứng mua trái cây, chị Q đeo 1 túi xách ở phía sau lưng, ngăn ngoài cùng của túi xách không kéo khóa, T phát hiện có một chiếc điện thoại di động cảm ứng. Lợi dụng sơ hở của chị Q, T đi đến phía sau chị Q, dùng tay phải lấy chiếc điện thoại nêu trên rồi đi một đoạn khoảng hơn 2 mét thì bị chị Q phát hiện tri hô, chạy đến giữ T lại trên tay đang cầm chiếc điện thoại mà T vừa lấy trộm được và chị Q đã trình báo sự việc đến Công an thành phố P. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 1 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max 64Gb màu vàng đồng.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Kiều T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Ngày 13-5-2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P ra yêu cầu định giá tài sản, tại Kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 73/KL-HĐĐG ngày 15-5-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P, kết luận: “1 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max 64Gb, kiểu máy MTX2LL/A, màu vàng đồng, số seri F2LXV9XJKPHF, mua vào tháng 02- 2019 sử dụng đến ngày 11-5-2019 bị chiếm đoạt, hiện đã thu hồi được; có giá trị còn lại theo giá thị trường là 17.900.000 đồng”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số: 109/CT-VKS ngày 22-7-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Kiều T về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Kiều T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình sự:

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i và s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kiều T với mức án từ 9 tháng đến 12 tháng tù (nhưng được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 11-5-2019 đến ngày 20-5-2019), cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Về dân sự: Bị hại là chị Trần Úc Q đã nhận lại chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS Max 64Gb nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Kiều T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi sai trái của mình; từ năm 2017 đến nay chồng của bị cáo đã bỏ đi, một mình bị cáo phải nuôi 4 con còn nhỏ dại; xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo tiếp tục chăm sóc, giáo dục và lo cho các con ăn học.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Thị Kiều T phạm tội như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 11-5-2019, tại cổng chợ đường N, tổ dân phố 5, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai, Nguyễn Thị Kiều T lợi dụng sơ hở của chị Trần Úc Q đã lén lút chiếm đoạt 1 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max 64Gb màu vàng đồng có giá trị 17.900.000 đồng, thì bị bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, bị cáo biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì muốn kiếm tiền một cách bất chính nên đã cố tình chiếm đoạt tài sản của bị hại. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P quyết định truy tố ra trước Tòa án để xét xử đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình với một hình phạt tương xứng.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại các điểm i và s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do bị cáo Nguyễn Thị Kiều T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú; phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ; có nơi cư trú rõ ràng; có khả năng tự cải tạo và hiện đang nuôi 4 con còn nhỏ nên xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần xử phạt tù, cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về dân sự: Quá trình tham gia tố tụng, bị hại là chị Trần Úc Q đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu về việc bồi thường thiệt hại. Do vậy, Hội đồng xét xử không giải quyết về vấn đề này.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, việc làm ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với người phụ nữ đã chở bị cáo đến đường N, ngay sau khi bị cáo bị bắt, người phụ nữ này đã bỏ đi nên chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, điều tra xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Kiều T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các điểm i và s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thị Kiều T.

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kiều T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kiều T 12 (mười hai) tháng tù (nhưng được khấu trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 11-5-2019 đến ngày 20-5-2019), cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi tư) tháng, tính từ ngày 09-9-2019.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Kiều T cho Uỷ ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Kiều T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HS-ST ngày 09/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:96/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về