Bản án 96/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 96/2019/HS-ST NGÀY 26/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 6 năm 2019, tại Nhà Văn hóa, Khối 6, phường Đông Kinh thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 94/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 05 tháng 8 năm 1968 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường B, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, chỗ ở: Đường P, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn M và bà Vũ L; có vợ là Nguyễn T và 03 con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án: Có 01 tiền án về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số 1844 ngày 29/10/2001 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội) tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 22/4/1997, bị Tòa án nhân dân thị xã L xử phạt 42 tháng tù về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy; ngày 25/9/1985, bị Tòa án nhân dân thị xã L xử phạt 12 tháng tù về hành vi Trộm cắp tài sản, các án tích này đã được xóa; bị tạm giữ ngày 27/12/2018, tạm giam ngày 30/12/2018 đến nay. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Liễu T. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Hoàng C. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 27/12/2018, bị cáo Nguyễn Văn T một mình đi từ nhà bằng xe mô tô biển kiểm soát 12P1–1755 đến khu vực cây xăng xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, với mục đích để mua ma túy về bán. Khi đến nơi bị cáo Nguyễn Văn T mua 01 gói ma túy giá 9.600.000 đồng của một người đàn ông không rõ lai lịch. Sau khi mua được ma túy bị cáo Nguyễn Văn T đem về nhà cất giấu và chia thành 07 gói nhỏ đựng trong túi nilon để bán kiếm lời. Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 27/12/2018 Liễu T gọi điện hỏi mua ma túy, bị cáo Nguyễn Văn T đồng ý và hẹn đến khu vực trước cổng Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn, đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố L để mua bán ma túy, tại đây bị cáo Nguyễn Văn T đã bán 01 gói ma túy cho Liễu T với giá 2.000.000 đồng.

Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 27/12/2018, bị cáo Nguyễn Văn T tiếp tục lấy 01 gói ma túy đi đến khu vực trước cổng Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn để bán thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ 01 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 xe mô tô biển kiểm soát 12P1 – 1755 và số tiền 680.000 đồng. Cùng ngày 27/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L tiến hành khám xét chỗ ở của bị cáo Nguyễn Văn T tại đường P, phường Đ, thành phố L, thu giữ thêm 05 gói nilon chứa chất bột màu trắng và số tiền 143.050.000 đồng.

Ti Kết luận giám định số 54/KL-PC 09 ngày 30/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục (thu giữ của Nguyễn Văn T) gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 1,878 gam (đã trừ bì). 05 cục chất bột màu trắng (thu giữ của Nguyễn Văn T) gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 16,876 gam (đã trừ bì).

o trạng số 98/CT-VKS ngày 06 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát thành phố L đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm i, q khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 đến 10 năm tù. Về hình phạt bổ sung áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, phạt tiền 5.000.000 đồng đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì đựng mẫu vật chất ma túy sau giám định và 01 hộp sắt màu xanh cốm. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia và số tiền 2.000.000 đồng. Trả lại cho bị cáo 01 Chứng minh nhân dân, 01 ví giả da màu đen, 01 điện thoại Iphone 6S và số tiền 14.680.000 đồng. Xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô 12P1-1755 và số tiền 127.050.000 đồng cho chủ sở hữu hợp pháp. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 27/12/2018, tại khu vực trước cổng Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn, đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Liễu T, qúa trình điều tra mở rộng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T tổng số 18,754 gam chất ma túy Heroine mà bị cáo tàng trữ với mục đích để bán kiếm lời. Năm 2001 bị cáo Nguyễn Văn T bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt 10 năm tù về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, lần xử phạt này chưa được xóa án tích, bị cáo lại tiếp tục có hành vi phạm tội rất nghiêm trọng nên lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm trước pháp luật.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định và có nhân thân xấu. Trước đó bị cáo đã 03 lần bị Tòa án xét xử, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân nay lại tiếp tục phạm tội. Điều đó cho thấy bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo cần thiết phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, đồng thời đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố là ông Nguyễn M, có mẹ là bà Vũ L được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có.

[6] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Mặc dù theo biên bản xác minh bị cáo không có tài sản riêng, nhưng Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có tài sản (tiền) là vật chứng trong vụ án, do đó, cần áp dụng khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự để phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng căn cứ khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 02 phong bì đựng ma túy sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 hộp sắt màu xanh cốm không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 16.680.000 đồng, trong đó có 2.000.000 đồng là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, số tiền còn lại 14.680.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội trả lại cho bị cáo. Đối với 01 điện thoại hiệu Nokia là phương tiện phạm tội cần tịch thu hóa giá nộp ngân sách. Đối với những tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội sẽ trả lại cho bị cáo, gồm: 01 Chứng minh nhân dân; 01 ví giả da màu đen và 01 điện thoại Iphone 6S.

[9] Đối với Liễu T có hành vi mua trái phép chất ma túy của bị cáo để về bán lại kiếm lời, Cơ quan điều tra đã khởi tố xử lý riêng trong một vụ án khác. Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên không có căn cứ để xác minh xử lý trong cùng vụ án.

[10] Cơ quan điều tra Công an thành phố L đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát 12P1-1755 và số tiền 127.050.000 đồng cho chủ sở hữu hợp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[11] Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm i, q khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/12/2018.

- Phạt tiền bị cáo Nguyễn Văn T 5.000.000 đồng (năm triệu đồng).

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì đựng mẫu vật (chất ma túy Heroine) sau giám định; 01 hộp sắt màu xanh cốm.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

- Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen xám, số IMEI 356935096849515.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T: 01 Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn T; 01 ví giả da màu đen hiệu Hermes; 01 điện thoại Iphone 6S màu trắng vàng có số IMEI 358609073175743; số tiền 14.680.000 đồng (mười bốn triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vt chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06 tháng 6 năm 2019. Số tiền 16.680.000 đồng được gửi tại tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố L theo Ủy nhiệm chi ngày 06 tháng 6 năm 2019 của Công an thành phố L)

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:96/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về