Bản án 97/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 97/2019/HS-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 98/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn S, sinh năm 1997 tại Bình Dương; nơi cư trú ấp H, xã T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trần Văn P, sinh năm 1974 và bà Phan Ngọc H, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 cho đến nay “có mặt”.

2. Bùi Văn N (tên gọi khác: C), sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú ấp 6, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Bùi Văn D (không rõ năm sinh) và bà Hồ Thị H (không rõ năm sinh), bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 cho đến nay “có mặt”.

3. Trương Công T, sinh năm 1996 tại Bình Phước; nơi cư trú ấp 01, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trương Bá Đ, sinh năm 1960 và bà Trần Thị L, sinh năm 1965; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 cho đến nay “có mặt”.

4. Nguyễn Văn S, sinh năm 1994 tại Nam Định; nơi cư trú thôn 7, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Thiên chúa giáo, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1959 và bà Trần Thị S, sinh năm 1960; tiền án, tiền sự: Không; Về nhân thân: Ngày 25/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tại bản án số 13/2013/HSST ngày 25/4/2013); bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 cho đến nay “có mặt”.

Ni bị hại:

Anh Trương Hoàng M, sinh năm 1991; nơi cư trú ấp 4, xã B, huyện B, tỉnh Long An “vắng mặt”.

Anh Tô Văn S, sinh năm 1967; nơi cư trú khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Quang H, sinh năm 1999; nơi cư trú ấp 3, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1990; nơi cư trú phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

Anh Lưu Văn P, sinh năm 1992; nơi cư trú thôn 7, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

Ni làm chứng:

Chị Trần Thị T, sinh năm 1995; nơi cư trú ấp 3, xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 24/4/2019 đến ngày 25/4/2019, Bùi Văn N, Trương Công T, Trần Văn S và Nguyễn Văn S đã trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có cụ thể như sau:

Khong 20 giờ ngày 24/4/2019, Bùi Văn N đến tiệm game bắn cá “không tên” tại ấp 3, xã T, thành phố Đ do Nguyễn Quang H làm quản lý, tại đây N rủ Trương Công T đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì T đồng ý. Sau đó N và T đi bộ đến khu đô thị “Cát Tường” thuộc ấp 3, xã T, thành phố Đ thì thấy một căn nhà đang xây dựng, ở gần đó có để một chiếc xe mô tô không có biển số và một máy bơm hơi hiệu Dekton, model DK5930 nên N và T đi vào khiêng bình bơm hơi và dắt chiếc xe mô tô trên ra ngoài đường. Lúc này N nổ máy xe rồi điều khiển chở T ngồi sau ôm bình bơm hơi chạy đến khu vực phía sau trường mầm non “Tuổi Thơ” thuộc ấp 6, xã T, thành phố Đ cất giấu bình bơm hơi trong bụi cây rồi N và T điều khiển xe mô tô quay lại tiệm game bắn cá của H ngồi chơi.

Khong 22 giờ ngày 24/4/2019, S điều khiển xe mô tô biển số 67N5-0137 đi vào nghĩa trang thành phố Đ, thuộc ấp 6, xã T thì thấy 01 khúc sắt tròn rồi dùng khúc sắt tròn bẻ khóa cửa nhà kho vào bên trong thì thấy 01 máy phát điện nhãn hiệu Honda, loại Kibii EKB 2900 R2, 01 máy mài nhãn hiệu Makita GA6010, 01 máy mài nhãn hiệu Makita GA 9556, 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai, loại 12V-25Ah-N25 và 01 máy phát điện Hữu Toàn SH 3100 của anh Tô Văn S, S đã lấy 01 máy mài nhãn hiệu Makita GA6010, 01 máy mài nhãn hiệu Makita GA9556 và 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai N25, loại 12V-25Ah-N25 đem về nhà cất giấu. Sau đó, S điều khiển xe mô tô đến tiệm game bắn cá “K” tại ấp 3, xã T, thành phố Đ do Nguyễn Quang H làm quản lý để chơi thì gặp Bùi Văn N và Trương Công T. Tại đây, S nói cho N biết “Trong nhà kho nghĩa trang thành phố Đ có hai cái máy phát điện” và rủ N vào lấy trộm thì N đồng ý và rủ Trương Công T cùng đi. Lúc này S điều khiển xe mô tô Honda Wave biển số 67N5- 0137 chở N và T đến nhà kho của nghĩa trang, S đứng bên ngoài cảnh giới, N và T đi vào khiêng 02 máy phát điện (01 máy phát điện nhãn hiệu Honda, loại Kibii EKB 2900 R2 và 01 máy phát điện Hữu Toàn SH 3100) ra chỗ S đứng và khiêng lên xe ràng dây lại để S chở đi cất giấu vào bụi cây trong lô cao su phía sau trường mầm non “Tuổi Thơ”, thuộc ấp 6, xã T, thành phố Đ. Sau đó S quay lại chở N và T đi đến nơi S cất giấu 02 máy phát điện rồi cả ba đi đến tiệm game của Nguyễn Quang H để chơi bắn cá. Sau khi bắn cá hết tiền thì N lấy xe mô tô không biển số và bình bơm hơi hiệu Dekton, model DK5930 mà N và T lấy trộm trước đó của anh M đem cầm cho Nguyễn Quang H được 2.000.000 đồng, số tiền trên N và T chơi game bắn cá hết, cùng lúc này N mượn xe mô tô của S chở T đi đến lấy 01 máy phát điện hiệu Hữu Toàn SH 3100 đem đến cầm cho H được 2.500.000 đồng và chơi bắn cá hết tiền. Sau đó S nhờ bạn gái là Trần Thị T bán 01 máy mài hiệu Makita GA 9556 được 200.000 đồng. Đến khoảng 22 giờ ngày 25/4/2019, N đi đến tiệm bắn cá “K” tại ấp 3, xã T, thành phố Đ do Nguyễn Quang H làm quản lý thì gặp Nguyễn Văn S và cùng ngồi chơi đến khoảng 00 giờ 45 phút ngày 26/4/2019 N rủ S đi lấy máy phát điện do N trộm cắp được trước đó đang cất giấu đem đi cầm lấy tiền chơi game bắn cá thì S đồng ý. Sau đó S lấy xe Honda Dream biển số 60S9-4641 chở N đến nơi cất giấu máy phát điện hiệu Honda, loại Kibi EKB 2900 R2 trước đó và khiêng máy phát điện ra xe rồi cả hai chở đến tiệm game của anh Nguyễn Quang H thì bị tổ tuần tra của Công an thành phố Đ phát hiện.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 76 ngày 03/5/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự kết luận: Tổng trị giá tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 12.400.000 đồng (mười hai triệu bốn trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Đ đã thu giữ: 01 xe mô tô Honda Dream biển số: 60S9-4641; 01 xe Honda Wave biển số: 67N5-0137; 01 xe mô tô không biển số; 01 máy bơm hơi hiệu Dekton, model DK 5930; 01 máy cắt cầm tay hiệu Makita GA 6010; 01 máy cắt cầm tay hiệu Makita GA 9556; 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai loại 12V-25Ah-N25; 01 máy phát điện Hữu Toàn loại SH 3100 và 01 máy phát điện hiệu Honda loại Kibii EKB 2900 R2.

Ngày 15 và 17/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 máy cắt cầm tay hiệu Makita GA 6010; 01 máy cắt cầm tay hiệu Makita GA 9556; 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai loại 12V-25Ah- N25; 01 máy phát điện Hữu Toàn loại SH 3100 và 01 máy phát điện hiệu Honda loại Kibii EKB 2900 R2 cho anh Tô Văn S; trả lại 01 bình bơm hơi Dekton, model DK5930 cho anh Trương Hoàng M và trả lại 01 xe mô tô Honda Dream biển số: 60S9-4641 cho anh Lưu Văn P.

Ti Bản cáo trạng số 96/CT-VKS Ny 20/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố các bị cáo Bùi Văn N, Trương Công T và Trần Văn S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn S mức án từ 12 đến 15 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn N mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Công T mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giao cho Công an Thành phố Đ xác minh chủ sử hữu đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số: 67N5- 0137 và 01 xe mô tô không biển số của anh Trương Hoàng M để có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.

c bị cáo S, N, T và S tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, các bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 96/CT-VKS ngày 20/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

[3] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa là phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng, biên bản định giá tài sản; kết luận điều tra, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Do muốn có tiền chơi game bắn cá nên khoảng 20 giờ ngày 24/4/2019 lợi dụng việc anh Trương Hoàng M đang xây dựng công trình tại ấp 3, xã T, Thành phố Đ sơ hở trong việc quản lý tài sản nên Bùi Văn N và Trương Công T đã lén lút lấy trộm 01 xe mô tô không biển số và 01 bình bơm hơi Dekton, model DK5930. Đến khoảng 22 giờ ngày 24/4/2019 Trần Văn S đến nghĩa trang thành phố Đ lén lút lấy trộm 01 máy mài nhãn hiệu Makita GA6010, 01 máy mài nhãn hiệu Makita GA 9556 và 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai, loại 12V-25Ah- N25 của anh Tô Văn S, sau khi lấy trộm tài sản của anh S, S tiếp tục rủ N và T lấy trộm của anh S 01 máy phát điện hiệu Hữu Toàn loại SH 3100 và 01 máy phát điện hiệu Honda loại Kibii EKB 2900 R2. Đối với Nguyễn Văn S mặc dù biết chiếc máy phát điện hiệu Honda loại Kibii EKB 2900 R2 do N và các bị cáo S, T phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý chở N đem đi cầm cố để tiêu thụ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 76/KL-ĐG ngày 03/5/2019 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự Thành phố Đ, kết luận:

01 máy bơm hơi hiệu Dekton, model: DK 5930; Press: 8 Bar-115PSI; Power:

2.0HP-1500W-190L/M; Tank CAP 30L; Date 2018 màu vàng, đã qua sử dụng, đang hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường đồ cũ là 1.000.000 đồng/cái.

01 xe kéo gắn máy tự lắp ráp đã qua sử dụng, đang hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường đồ cũ là 600.000 đồng/xe.

01 máy cắt cầm tay hiệu Makita GA 6010 150mm; 220-230V; 4.8A; 50-60HZ;

1050W đã qua sử dụng; đang hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường đồ cũ là 1.000.000 đồng/cái.

01 máy cắt cầm tay hiệu Makita GA 9556 100mm; 220-230V; 4.8A; 50-60HZ;

840W đã qua sử dụng; đang hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường đồ cũ là 600.000 đồng/cái.

01 bình ắc quy nhãn hiệu ĐồngNai loại 12V-25Ah-N25 đã qua sử dụng; đang hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường đồ cũ là 200.000 đồng/bình.

01 máy phát điện Hữu Toàn loại SH 3100; hiệu điện thế 220V; tần số 50HZ;

công suất tối đa 2.2KVA; công suất tối đa 2.3 KVA; số pha 1; nhiên liệu: Xăng; đã qua sử dụng, đang hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường đồ cũ là 5.000.000 đồng/cái.

01 máy phát điện hiệu Honda loại Kibii EKB 2900 R2; công suất liên tục 2.0 KVA; công suất tối đa 2.2KVA; điện áp 220/240V; D tích nhiên liệu 3.6L; hệ số công suất 1.0, tần số 50HZ; công suất 505HP; tốc độ quay: 3000rpm; trọng lượng 45 kg đã qua sử dụngcông suất tối đa 2.3 KVA; số pha 1; nhiên liệu: Xăng; đã qua sử dụng, đang hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường đồ cũ là 4.000.000 đồng/cái.

Tổng trị giá tài sản là 12.400.000 đồng (mười hai triệu bốn trăm nghìn đồng).

[4] Căn cứ vào hành vi phạm tội của các bị cáo và giá trị tài sản các bị cáo đã chiếm đoạt mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố các bị cáo N, S, T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; bị cáo S về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Hành vi của các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của những người bị hại, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân và tình hình an ninh chính trị tại địa phương, khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lấy trộm tài sản và đem tài sản chiếm đoạt trái phép đi tiêu thụ là hành vi sai trái và bị pháp luật nghiêm trị nhưng vì mục đích chơi game và tiêu xài cá nhân mà các bị cáo vẫn cố tình thực hiện nên cần thiết phải có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi và hậu quả của hành vi mà các bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn nhưng cũng cần phân tích vai trò của từng bị cáo trong việc cá thể hóa hình phạt:

Đối với bị cáo Trần Văn S: Bị cáo là người chiếm đoạt số lượng và giá trị tài sản lớn hơn so với các bị cáo còn lại, ngoài việc lấy trộm 01 máy mài nhãn hiệu Makita GA6010, 01 máy mài nhãn hiệu Makita GA 9556, 01 bình ắc quy nhãn hiệu Đồng Nai, loại 12V-25Ah- N25, bị cáo còn rủ rê N để N rủ rê T lấy trộm 02 máy phát điện của anh S, với tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 10.800.000 đồng. Vì vậy cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với bị cáo Bùi Văn N: Là người nảy sinh ý định trộm cắp tài sản và cũng chính bị cáo là người thực hành tích cực trong việc lấy trộm tài sản, ngoài việc rủ rê và cùng bị cáo T lấy trộm 01 xe mô tô không biển số và 01 bình bơm hơi Dekton, model DK5930 của anh M, khi được S rủ lấy trộm tài sản bị cáo đã cùng S và T lấy trộm 01 máy phát điện Hữu Toàn loại SH 3100 và 01 máy phát điện hiệu Honda loại Kibii EKB 2900 R2 của anh S, với tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 10.600.000 đồng.

Đối với bị cáo Trương Công T: Khi được N và S rủ đi lấy trộm tài sản bị cáo đã đồng ý và cùng với N, S thực hiện hành vi phạm tội, với tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 10.600.000 đồng.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn S, mặc dù biết được chiếc máy phát điện hiệu Honda loại Kibii EKB 2900 R2 do N, T và S phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý chở N đem đi cầm cố để tiêu thụ. Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 25/4/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, do đó cũng cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[7] Các bị cáo được xem xét các tình tiết giảm nhẹ như sau: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bản thân các bị cáo N, S, T chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại phiên tòa người bị hại anh Tô Văn S cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do đó bị cáo N, S, T được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo S được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét các bị cáo N và T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mặc khác sau khi phạm tội các bị cáo cũng đã bị tạm giam từ ngày 26/4/2019 cho đến nay (04 tháng 16 ngày), cũng đủ để các bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình, do đó không cần thiết phải cách ly các bị cáo để giáo dục mà chỉ cần lên cho các bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội, cho các bị cáo hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách, giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[8] Đối với Nguyễn Quang H là người trực tiếp nhận cầm cố 01 máy phát điện, 01 bình bơm hơi và 01 xe mô tô không biển số nhưng anh H không biết số tài sản trên là do Bùi Văn N và các bị cáo khác phạm tội mà có nên không đặt vấn đề xử lý.

Đối với Trần Thị T là người được Trần Văn S nhờ bán dùm 01 máy mài nhưng chị T không biết đó là tài sản do S lấy trộm nên không đặt vấn đề xử lý.

Đối với hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi game bắn cá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Đ tiếp tục làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số: 67N5-0137, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đang xác minh, điều tra và xử lý theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc xe mô tô không biển số là tài sản của anh Trương Hoàng M. Do anh M mua các bộ phận của xe tại các tiệm ve chai đem về lắp ráp sử dụng, không có giấy tờ hợp pháp, anh M không có yêu cầu nhận lại, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đang xem xét để xử lý theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại anh Tô Văn S đã nhận lại được tài sản bị chiếm đoạt, anh Trương Hoàng M nhận lại một phần tài sản bị chiếm đoạt. Cả anh S và anh M không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Quang H bỏ ra để nhận cầm cố tài sản cho bị cáo N, do anh H không yêu cầu bị cáo N phải trả lại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn S, Bùi Văn N, Trương Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản; bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn S 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn N 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo N nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trương Công T 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Áp dụng khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo T nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Tuyên giao các bị cáo N và T cho Ủy ban nhân dân xã T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách nếu các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì các bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Trong trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự

3. Về trách nhiệm dân sự: Do các bên không ai có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo S, bị cáo N, bị cáo T và bị cáo S mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Ngưi bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HS-ST ngày 12/09/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:97/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về