Bản án 98/2017/HSST ngày 10/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH B

BẢN ÁN 98/2017/HSST NGÀY 10/8/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 10 tháng 8 năm 2017, tại nhà văn hóa thôn Q, xã V, huyện Y. Tòa án nhân dân huyện Y mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 94/2017/HSST, ngày 18 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Trương Đức L, sinh năm 1994.

Trú tại: Thôn P, xã V, huyện Y, tỉnh B; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: tự do; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Đức L, sinh năm 1967 và bà Ngô Thị D, sinh năm 1970; gia đình có 02 anh em, bị cáo là út; vợ là Lê Thị Đ, sinh năm 1998, có 01 con sinh năm 2015.

Tiền án: Ngày 18/11/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 10 tháng tù về tội: “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 20/01/2017 bị Công an tỉnh B khởi tố về tội “tổ chức đánh bạc”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/5/2017 đến nay (có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 17h45’ ngày 04/5/2017, tại phòng 202 nhà nghỉ Quốc Thỏa ở phố Ch, thị trấn Ch, huyện Y. Công an huyện Y tiến hành kiểm tra bắt quả tang Trương Đức L đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cùng có Mẫn Đức T, sinh năm 1994 ở thôn Ng, thị trấn Ch, huyện Y. Thu giữ tại lòng bàn tay phải của L 01 túi ni lông màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, L khai đó là ma túy đá vừa đi mua về chưa kịp sử dụng. Công an huyện Y đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với L, đồng thời niêm phong vật chứng có chữ ký của L, của người làm chứng rồi gửi đi giám định.

Tại Kết luận giám định số: 645/KLGĐ-PC54, ngày 04/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B kết luận: “Các hạt tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có trọng lượng 1,6524 gam là ma túy; Loại ma túy: Chất Methamphetamine”.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trương Đức L khai nhận: Khoảng 17h, ngày 04/5/2017, L cùng bạn là Mẫn Đức T cùng đi chơi tại thị trấn Ch. Khi đi đến đoạn ngã tư thị trấn Ch do T mệt nên T và L rủ nhau vào nhà nghỉ Quốc Thỏa ở gần đó để nghỉ. Khi đi đến trước cửa nhà nghỉ, L bảo T vào nghỉ trước, L đi có tí việc. T vào nhà nghỉ Quốc Thỏa thuê phòng 202, còn L đi nhờ xe của một người đi đường không quen biết đi ra Khu đô thị mới, thị trấn Ch mục đích mua ma túy sử dụng. L đi đến gần quán karaoke X6 thì xuống xe đi bộ. Tại đây, L gặp một người thanh niên khoảng 20 tuổi không quan biết, L hỏi: “anh có đá bán không để cho em 500.000đ”, người thanh niên gật đầu rồi đưa cho L 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các tinh thể màu trắng. L cầm túi nilon và đưa cho người thanh niên số tiền 500.000đ. Sau đó, L đi nhờ xe của một người đi đường về nhà nghỉ Quốc Thỏa, lên phòng 202 gặp T, mục đích để sử dụng ma túy đá. Khi L vừa vào phòng 202 đóng cửa lại, chưa kịp sử dụng ma túy thì bị Công an huyện Y kiểm tra bắt quả tang.

Bản cáo trạng số: 91/CTr-VKS, ngày 18/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố Trương Đức L về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo khoản 1, điều 194 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã đưa ra chứng cứ lý lẽ buộc tội Trương Đức L về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điều 194; điều 33; điểm p, khoản 1, điều 46; điểm g, khoản 1, điều 48; điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3, điều 7; khoản 1, điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt L từ 26 đến 30 tháng tù.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì mẫu vật còn lại sau giám định.

Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17h45’ ngày 04/5/2017 Trương Đức L đã có hành vi cất giữ trái phép 01 gói ma túy có trọng lượng 1,6524 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Căn cứ Thông tư liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP, ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp thì hành vi của Trương Đức L đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, phạm vào khoản 1, điều 194 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, xâm phạm sức khoẻ và sự phát triển giống nòi của dân tộc, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, ma tuý cũng là nguyên nhân phát triển các tội phạm hình sự khác. Việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân.

Xét về nhân thân bị cáo thì thấy: Bị cáo đã có 01 tiền án. Ngày 18/11/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 10 tháng tù về tội: “tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng. Bị cáo đã nộp xong tiền án phí, đã hết thời gian thử thách, nhưng bị cáo không chịu cải tạo mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này là tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 20/01/2017 bị Công an tỉnh B khởi tố bị can về tội “tổ chức đánh bạc”. Bởi vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tại khoản 1, điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm. Tại khoản 1, điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 1 năm đến 5 năm. Căn cứ Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3, điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định một hình phạt nhẹ hơn và quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

Xét thấy, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã thành khẩn khai báo, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Xét thấy số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Trong vụ án này có người thanh niên đã bán ma túy cho L, nhưng L không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Đối với Mẫn Đức T là người có mặt tại phòng 202 nhà nghỉ Quốc Thỏa cùng với L ngày 04/5/2017, nhưng T không biết việc L đi mua ma túy. T cũng không bàn bạc gì với L về việc sử dụng ma túy. Vì vậy Cơ quan điều tra không xử lý đối với Mẫn Đức T là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trương Đức L phạm tội "tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng khoản 1, điều 194; điều 33; điểm p, khoản 1, điều 46; điểm g, khoản 1, điều 48; điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3, điều 7; khoản 1, điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 1, 3 điều 228; điểm a, khoản 2, điều 76; điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Trương Đức L 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/5/2017. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày 10/8/2017 để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2017/HSST ngày 10/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:98/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thế - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về